Bán đất không có thật, bị xử lý ra sao?

25/09/2017 - 07:24

Bà Trần Thị Bạch (huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre) có nhu cầu tư vấn như sau:

Tôi có mua 2 thửa đất, thuộc loại đất trồng cây lâu năm ở nông thôn, giá mua thực tế là 190 triệu đồng vào ngày 15-6-2016: thửa thứ nhất có diện tích 450m2; thửa thứ hai có diện tích 552m2, vị trí sát mặt lộ vườn. Trong quá trình mua bán, chủ đất là ông A. đã dẫn tôi đi xem và chỉ rõ vị trí 2 thửa đất này. Sau khi làm giấy thỏa thuận, ông A. có giao cho tôi bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ) 2 thửa đất trên và cùng tôi đến văn phòng công chứng để lập hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ. Theo điều khoản về phương thức thanh toán trong hợp đồng, tôi trả trước cho ông A. 170 triệu đồng, còn 20 triệu đồng tôi sẽ trả tất sau khi tôi có giấy chứng nhận QSDĐ.

Đến ngày 10-7-2016, khi làm thủ tục sang tên giấy chứng nhận QSDĐ, tôi phát hiện là thửa đất 450m2, ông A. (chủ đất) đã bán cho ông B. (em ruột) giá 80 triệu đồng và ông B. đã trả 50 triệu đồng. Do tin tưởng nên B. vẫn để ông A. giữ giấy chứng nhận QSDĐ và ông A. đã bán cho tôi. Sau khi biết sự việc, ông B. tranh chấp và không giao đất (có giấy viết tay về việc mua - bán thửa đất trên giữa hai bên A. và B.). Riêng thửa đất có diện tích 552m2, không phải là thửa đất đúng vị trí mà họ chỉ cho tôi xem ban đầu, mà là thửa đất nằm phía bên trong, không có lối đi, nên tôi không đồng ý nhận đất.

Do chỗ quen biết và đã cầm “sổ đỏ” trong tay nên tôi đã bị lừa. Tôi chỉ yêu cầu chủ đất trả lại tôi số tiền 170 triệu đồng đã nhận và tôi đồng ý hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng 2 thửa đất trên cho êm chuyện. Thế nhưng, ông A. cứ hẹn lần hẹn lựa; đến nay, vẫn không trả tiền cho tôi và cũng không giao đất.

Vậy cho tôi hỏi: Trong trường hợp này, ông A. có lừa đảo chiếm đoạt tiền của tôi không? Tôi phải làm gì để lấy lại được số tiền trả trước đó của mình?  

Thắc mắc của bà được luật sư Phạm Thị Kim Tuyến (Đoàn Luật sư Bến Tre) tư vấn như sau:

Khoản 1 Điều 107 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Đất đai là bất động sản”. Đất đai trong giao dịch dân sự được xác định bằng diện tích đất cùng vị trí của thửa đất. Điều này được thể hiện trên bản đồ địa chính, thông qua quyết định giao đất, giấy chứng nhận QSDĐ.

Mặt khác, theo quy định tại Khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013 về “Điều kiện thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp QSDĐ; góp vốn bằng QSDĐ” thuộc các trường hợp sau:

1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp QSDĐ; góp vốn bằng QSDĐ khi có các điều kiện sau đây:

a) Có giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại Khoản 3 Điều 186 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại Khoản 1 Điều 168 của Luật này;

b) Đất không có tranh chấp;

c) QSDĐ không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;

d) Trong thời hạn sử dụng đất.

Căn cứ các quy định trên và từ cơ sở cung cấp thông tin của bà thì trường hợp này, ông A. (chủ đất) biết rất rõ tình trạng đất đai của mình, nhưng cố ý gian dối, đưa ra thông tin không đúng sự thật để cho người mua tin tưởng nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của người mua là trái quy định của pháp luật.

Với hành vi này, xét về tính chất, mức độ, định lượng tài sản bị chiếm đoạt, ông A. phải chịu trách nhiệm về dân sự và còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 139 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

H.Đức (thực hiện)

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN