BDK.VN - Chiến dịch Tây Nguyên (từ ngày 4-3 đến 3-4-1975) - đòn chiến lược mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 của quân và dân ta giành thắng lợi, đã tạo nên bước ngoặt làm thay đổi cục diện chiến tranh. Thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên có tầm quan trọng về chiến lược, có giá trị lịch sử và hiện thực sâu sắc đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Sư đoàn 320 làm nên chiến thắng Cheo Reo trong trận truy kích địch trên Đường 7 - Cheo Reo (16-3 – 24-3-1975) trong Chiến dịch Tây Nguyên. (Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát)
***
Sau những thất bại liên tiếp trên các chiến trường, đặc biệt là thất bại trong cuộc tập kích chiến lược 12 ngày đêm cuối năm 1972 vào Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương ở miền Bắc, không còn con đường nào khác, đế quốc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán, ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (ngày 27-1-1973).
Tuy nhiên, sau Hiệp định, đế quốc Mỹ vẫn ngầm viện trợ quân sự và hối thúc chính quyền ngụy phá hoại Hiệp định Paris, âm mưu chia cắt lâu dài nước ta. Chúng sử dụng chính quyền và quân đội Sài Gòn làm công cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân kiểu mới, tiến hành chiến dịch "tràn ngập lãnh thổ”, buộc quân và dân ta phải đánh trả để bảo vệ vùng giải phóng, giữ vững hiện trạng.
Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương, khóa III (tháng 10-1973) họp, ra nghị quyết nêu rõ: "Con đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên.”
Theo đó, từ cuối năm 1973 - 1974, tất cả các chiến trường trên toàn miền Nam đã chuyển sang phản công và tiến công kiên quyết, đánh bại âm mưu lấn đất, giành dân của địch; từng bước đẩy lùi địch về thế phòng ngự bị động, lâm vào thế khó cả về tác chiến và xây dựng lực lượng.
Đầu tháng 1-1975, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương họp, hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976 và nếu có thời cơ thì giải phóng miền Nam trong năm 1975.
Sau đó, theo dõi sự phát triển mau lẹ của tình hình, khi thời cơ mới xuất hiện, Bộ Chính trị, Thường vụ Quân ủy Trung ương đã chuyển kế hoạch cơ bản giải phóng miền Nam từ hai năm (1975 - 1976) lúc đầu, sang kế hoạch rút xuống còn một năm rồi quyết định kết thúc trước mùa mưa năm 1975.
Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị về giải phóng miền Nam trong năm 1975, Bộ Chính trị, trực tiếp là Quân ủy Trung ương đã quyết định mở Chiến dịch Tây Nguyên (mang mật danh A 275), nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng các tỉnh Đắk Lắk, Phú Bổn, Quảng Đức, thực hiện chia cắt và tạo thế chiến lược mới trên chiến trường toàn miền Nam.
Chọn Tây Nguyên làm hướng mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 là do Tây Nguyên là nơi yếu nhất của địch. Tây Nguyên có vị trí chiến lược quan trọng, nhưng điểm yếu cốt tử là nhiều núi cao hiểm trở, hệ thống giao thông kém phát triển, địch cơ động lực lượng chủ yếu dựa vào một số trục đường chính (14, 19, 21, 7...). Khi các trục đường này bị cắt và "khóa chặt” thì Tây Nguyên bị cô lập, tách rời khỏi vùng đồng bằng Nam Trung Bộ và cả chiến trường miền Nam, duy nhất còn lại đường không để địch chi viện, ứng cứu. Trong khi đó, ta hoàn toàn có đủ khả năng và điều kiện phát huy sở trường triển khai thế trận vận động tiến công tiêu diệt từng bộ phận lực lượng quân địch. Nếu ta làm chủ được Tây Nguyên sẽ khống chế được một vùng rộng lớn, bao gồm đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ, Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia, tạo được thế đứng chân vững chắc để phát triển thế tiến công xuống Sài Gòn - Gia Định; phát triển xuống các tỉnh ven biển miền Trung. Việc lựa chọn hướng mở đầu vào Tây Nguyên còn thuận lợi cho ta triển khai thế tiến công chiến lược.
***
Ngày 4-3-1975, sau một loạt hoạt động nghi binh, thu hút quân đội ngụy Sài Gòn lên hướng Pleiku, Kon Tum, Chiến dịch Tây Nguyên chính thức mở màn.
Bộ đội ta giải phóng Đắc Tô - Tân Cảnh (Kon Tum) trong Chiến dịch Tây Nguyên.
Từ ngày 4 đến 9-3-1975, quân ta đánh cắt giao thông trên các đường số 19, 21, cô lập Tây Nguyên với vùng Duyên hải miền Trung, chia cắt đường số 14 để cô lập hai khu vực Bắc Tây Nguyên với Nam Tây Nguyên; tiến công lần lượt đánh chiếm quận lỵ Thuần Mẫn, Đức Lập, cô lập triệt để Buôn Ma Thuột. Thừa thắng, trong 2 ngày 10 và 11-3, quân ta tiến công, giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột, đánh thắng trận then chốt thứ nhất của Chiến dịch. Đây là trận then chốt quyết định của Chiến dịch, một trận "điểm đúng huyệt”, làm rối loạn sự chỉ đạo chiến lược và đảo lộn thế phòng thủ của địch ở Tây Nguyên.
Tiếp đó, từ ngày 14 đến 18-3, ta đập tan cuộc phản kích của Sư đoàn 23 trong trận Nông Trại - Chư Cúc, thực hiện thắng lợi trận then chốt thứ hai. Bị thất bại và trước sức uy hiếp mạnh mẽ của quân ta, từ ngày 15-3, quân địch rút khỏi Kon Tum, Pleiku theo đường số 7 hòng co cụm về vùng đồng bằng ven biển Khu 5. Không bỏ lỡ thời cơ, bộ đội ta truy kích, tiêu diệt quân địch rút chạy trên đường số 7, giành thắng lợi trong trận then chốt thứ ba…; giải phóng Kom Tum, Gia Lai và toàn bộ Tây Nguyên. Sau khi làm chủ Tây Nguyên (24-3), từ đầu tháng 4-1975, quân ta tiếp tục phát triển xuống duyên hải Trung Bộ, tiêu diệt Lữ đoàn dù 3, Trung đoàn bộ binh 40, Liên đoàn biệt động quân 24, giải phóng các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa.
Ngày 3-4-1975, Chiến dịch Tây Nguyên kết thúc thắng lợi, ta đã tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 2 - Quân khu 2 quân đội ngụy Sài Gòn, loại khỏi chiến đấu hơn 28.000 tên địch, thu và phá hủy 154 máy bay, 1.096 xe quân sự, 17.188 súng các loại...
Chiến dịch Tây Nguyên đã tiêu diệt và làm tan rã một tập đoàn phòng ngự lớn, giải phóng một địa bàn quan trọng, uy hiếp trực tiếp tuyến phòng ngự ven biển miền Trung, mở đầu cho sự cáo chung của chế độ ngụy Sài Gòn. Đặc biệt, trận then chốt đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột thắng lợi, góp phần làm thay đổi nhanh chóng cục diện chiến trường, mở ra thời cơ tổng tiến công chiến lược, tạo bước ngoặt quyết định, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nhanh chóng kết thúc thắng lợi.
Có thể khẳng định, chiến thắng của Chiến dịch Tây Nguyên, đòn điểm huyệt Buôn Ma Thuột thể hiện sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng mà cụ thể là sự chỉ đạo của Bộ Tham mưu tối cao là Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương về tất cả các mặt, từ việc chọn chiến trường, thời điểm, chọn vị trí đột phá cho đến việc chớp thời cơ phát triển chiến dịch đến những thắng lợi tiếp theo to lớn hơn. Chiến thắng của Chiến dịch Tây Nguyên là dấu ấn đậm nét trong dòng chảy lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới, đặc biệt là đối với sự nghiệp xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại.