Cán bộ Phường 1, Quận 3 (TP. Hồ Chí Minh) chi trả hỗ trợ người lao động bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19. Ảnh: Thanh Vũ/TTXVN
Kinh phí của gói hỗ trợ lần 2 này, theo đề xuất là 18.600 tỷ đồng, nhằm hỗ trợ về chính sách tín dụng để phát triển sản xuất kinh doanh, duy trì, mở rộng việc làm và hỗ trợ trực tiếp người lao động gặp khó khăn. Theo đó, về chính sách tín dụng hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh sẽ hỗ trợ cơ sở sản xuất kinh doanh và người lao động vay vốn ưu đãi để khôi phục, duy trì và hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần tạo, duy trì và mở rộng việc làm.
Đối tượng thụ hưởng là doanh nghiệp vừa và nhỏ; hợp tác xã, tổ hợp tác; hộ kinh doanh, trong đó ưu tiên doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, hợp tác xã và hộ kinh doanh; người lao động tại khu vực nông thôn.
Mức vay tối đa theo quy định tại Nghị định số 74/2019/NĐ-CP đối với cơ sở sản xuất kinh doanh 2 tỷ đồng, đối với người lao động 100 triệu đồng. Thời hạn hỗ trợ lãi suất là 12 tháng đối với các khoản vay mới. Thời gian áp dụng đối với các khoản vay mới phát sinh từ ngày 1-9-2020 đến ngày 1-9-2021. Lãi suất vay 3,96%/năm, bằng 50% lãi suất cho vay đối với hộ cận nghèo. Kinh phí ước tính là 15.000 tỷ đồng.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng đề xuất chính sách hỗ trợ lao động mất việc có hoàn cảnh khó khăn theo hướng sẽ hỗ trợ trực tiếp bằng tiền cho người lao động bị mất việc làm có hoàn cảnh khó khăn (tiền thuê nhà, chi phí nuôi con dưới 6 tuổi). Đối tượng là người lao động đang phải thuê nhà và (hoặc) nuôi con nhỏ dưới 6 tuổi bị mất việc làm hoặc tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương, ngừng việc đối với lao động có giao kết hợp đồng lao động.
Mức hỗ trợ 1 triệu đồng/người/tháng hoặc 1 triệu đồng/trẻ em dưới 6 tuổi; hỗ trợ tối đa 3 tháng. Thời gian áp dụng từ tháng 9-2020 đến tháng 12-2020. Kinh phí ước tính khoảng 3.600 tỷ đồng.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét giảm lãi suất vay vốn tạo việc làm từ Quỹ Quốc gia về việc làm và nguồn huy động của Ngân hàng Chính sách xã hội. Cụ thể, lãi suất bằng 50% lãi suất cho vay hộ cận nghèo. Thời gian hỗ trợ lãi suất 12 tháng, áp dụng đối với các khoản vay mới phát sinh kể từ ngày 1-9-2020 đến ngày 1-9-2021.
Cũng theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, đối với gói hỗ trợ 62.000 tỷ đồng, tính đến hết tháng 7-2020, các địa phương đã phê duyệt danh sách gần 16 triệu người thuộc các nhóm đối tượng được thụ hưởng với tổng kinh phí là trên 17.500 tỷ đồng.
Cụ thể, Kho bạc Nhà nước trung ương đã thực hiện giải ngân gần 12.000 tỷ đồng để thực hiện hỗ trợ cho gần 12 triệu người và gần 13.000 hộ kinh doanh, gồm: trên 11,5 triệu người là người có công với cách mạng, đối tượng bảo trợ xã hội, người thuộc hộ nghèo, cận nghèo với kinh phí là trên 11.500 tỷ đồng; nhóm đối tượng là người lao động đã được hỗ trợ trên 402.000 người với kinh phí là trên 403 tỷ đồng.
Theo báo cáo của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, tính đến ngày 31-7-2020, có 1.739 đơn vị sử dụng lao động được giải quyết tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí, tử tuất cho 164.529 người lao động, với tổng kinh phí gần 602,622 tỷ đồng.
Trước một số vướng mắc và đề xuất của địa phương liên quan đến gói hỗ trợ an sinh theo Nghị quyết số 42/NQ-CP, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã có Tờ trình số 67/TTr-LĐTBXH trình Chính phủ về ban hành Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg ngày 24-4-2020 của Thủ tướng Chính phủ, trong đó mở rộng đối tượng thụ hưởng đối với chính sách hỗ trợ cho lao động tạm hoãn hợp đồng lao động, điều chỉnh các điều kiện đối với chính sách cho vay để trả lương ngừng việc cho người lao động, nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các đối tượng được tiếp cận chính sách hỗ trợ tại Nghị quyết số 42/NQ-CP.
Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, sau 3 tháng triển khai thực hiện gói hỗ trợ an sinh theo Nghị quyết số 42/NQ-CP về cơ bản đã hoàn thành việc chi trả hỗ trợ đối với nhóm đối tượng người có công với cách mạng, bảo trợ xã hội, người thuộc hộ nghèo, cận nghèo. Đối với việc hỗ trợ người lao động, hộ kinh doanh, nhìn chung các chính sách hỗ trợ đã bao phủ tới các đối tượng thụ hưởng như chính sách bảo hiểm thất nghiệp, chính sách tạm hoãn đóng bảo hiểm xã hội, chính sách tạm hoãn hợp đồng lao động, ngừng việc…. Về cơ bản đảm bảo đúng đối tượng, đúng mục đích, yêu cầu đề ra, đối tượng thuộc diện chính sách nào thì đã được tiếp cận, thụ hưởng đúng chính sách đó.
Nguồn: TTXVN/Báo Tin Tức