BDK.VN - Ban Thường vụ Tỉnh ủy vừa có chỉ thị về việc chủ động thực hiện các biện pháp phòng, chống, ứng phó xâm nhập mặn mùa khô 2024 - 2025 trên địa bàn tỉnh.
Thường xuyên theo dõi độ mặn trên các sông chính để khuyến cáo người dân sử dụng nguồn nước tưới tiêu.
Theo dự báo của các cơ quan chuyên môn, tình hình xâm nhập mặn trong mùa khô 2024 - 2025 có khả năng bắt đầu ảnh hưởng đến các sông từ nửa cuối tháng 12-2024 và đạt đỉnh điểm vào khoảng tháng 2 và tháng 3-2025.
Mức độ xâm nhập mặn dự kiến sẽ sâu hơn mức trung bình nhiều năm, nhưng ít nghiêm trọng hơn so với mùa khô 2023 - 2024 và tương đương với mùa khô 2022 - 2023. Tuy nhiên, tình hình xâm nhập mặn vẫn có thể diễn biến phức tạp, dẫn đến thiếu nước, xâm nhập mặn sâu vào nội đồng, đe dọa nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp, sinh hoạt của người dân và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Để chủ động ứng phó với tình hình xâm nhập mặn trong mùa khô 2024 - 2025, góp phần hạn chế thiệt hại, bảo vệ sản xuất kinh doanh và ổn định đời sống nhân dân, Ban Thường vụ Tỉnh ủy yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp, các tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ được giao xác định nhiệm vụ phòng, chống hạn hán, xâm nhập mặn là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách để tập trung huy động nguồn lực và thực hiện với quyết tâm chính trị cao nhất.
Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện có hiệu quả các giải pháp phòng, chống hạn, mặn mùa khô năm 2024 - 2025. Theo dõi sát diễn biến tình hình xâm nhập mặn trên địa bàn tỉnh, kịp thời có giải pháp ứng phó.
Huy động cả hệ thống chính trị, đặc biệt là vai trò của người dân, doanh nghiệp để đẩy mạnh công tác phòng, chống thiên tai, hạn mặn. Chủ động thực hiện giải pháp cung cấp nước, không để thiếu nước cho sinh hoạt và sản xuất, ảnh hưởng đến sức khỏe, đời sống của nhân dân.
Nâng cao chất lượng công tác quan trắc. Chủ động dự báo, cảnh báo về tình hình nguồn nước, xâm nhập mặn mùa khô năm 2024 – 2025. Đặc biệt, dự báo sớm để kịp thời phục vụ trong công tác chỉ đạo, điều hành phòng, chống và ứng phó hiệu quả.
Đẩy mạnh thông tin tuyên truyền các dự báo, cảnh báo, diễn biến tình hình xâm nhập mặn, các giải pháp phòng, chống hạn hán, xâm nhập mặn bằng nhiều hình thức, bảo đảm mọi thông tin cần tuyên truyền, hướng dẫn phải rộng khắp, đến người dân kịp thời, chính xác, dễ hiểu, dễ thực hiện, góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân trong việc sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả và tích cực bảo vệ nguồn nước.
Tiếp tục phát động nhân dân thực hiện phong trào “Đồng khởi” trữ nước mưa, nước ngọt phục vụ nhu cầu sinh hoạt, chăn nuôi và sản xuất. Chủ động trang bị các dụng cụ chứa nước, trữ nước, dụng cụ đo mặn.
Áp dụng các mô hình hay, cách làm hiệu quả đã được áp dụng và phát huy hiệu quả trong thời gian qua để phục vụ ngăn mặn, trữ ngọt phục vụ sản xuất, sinh hoạt trong trường hợp xâm nhập mặn tăng đột biến, bất thường. Xây dựng lịch thời vụ, khuyến cáo kịp thời các giải pháp trong sản xuất nông nghiệp phù hợp với diễn biến, tình hình thiên tai, xâm nhập mặn trên các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản đến các địa phương, người dân để triển khai thực hiện.
Tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp, hướng dẫn người dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi phù hợp với từng vùng sinh thái theo hướng thích ứng với hạn mặn, đáp ứng nhu cầu thị trường, chuyển từ phát triển theo số lượng sang chất lượng...
Rà soát, sẵn sàng phương án thực hiện các công trình tạm (đập tạm, cống tạm, bờ bao...) để phục vụ công tác ngăn mặn, trữ ngọt tại các địa phương, tạo nguồn cấp nước cho các nhà máy nước. Khuyến khích thực hiện các công trình theo mô hình xã hội hóa, nhà nước và nhân dân cùng làm, bảo đảm hiệu quả, tiết kiệm, tránh lãng phí. Bên cạnh đó, chủ động bố trí kinh phí triển khai thực hiện các giải pháp phòng, chống xâm nhập mặn; kịp thời hỗ trợ nhân dân khi cần thiết.
Thực hiện tốt công tác quản lý, vận hành, khai thác tối đa hiệu quả của các công trình phục vụ phòng, chống, ứng phó hạn mặn đã được đầu tư xây dựng trong thời gian qua. Chú trọng công tác nạo vét hệ thống kênh mương nội đồng, khơi thông dòng chảy, duy tu, sửa chữa, nâng cấp hệ thống công trình thủy lợi, đê điều.
Xây dựng lịch vận hành các công trình cống, trạm bơm, đập tạm bảo đảm linh hoạt, hiệu quả ưu tiên cho hoạt động tạo nguồn, cấp nước cho các nhà máy nước, phục vụ sản xuất nông nghiệp, dân sinh.
Tiếp tục tranh thủ sự hỗ trợ của Trung ương, ưu tiên nguồn lực để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình còn lại của dự án JICA, hệ thống thủy lợi Bắc Bến Tre, Nam Bến Tre... Đẩy nhanh tiến độ thi công, sớm đưa các công trình phòng, chống xâm nhập mặn, trữ ngọt, cấp nước đi vào vận hành.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chất lượng nguồn nước; đặc biệt, trên các sông chính, khu vực trữ ngọt, nguồn cấp nước. Kiểm soát các hoạt động có nguy cơ cao gây ô nhiễm, giảm chất lượng nước đặc biệt là tại các điểm có lưu lượng xả thải cao.
Xử lý nghiêm các hoạt động gây ô nhiễm để bảo vệ nguồn nước.Đầu tư xây dựng, nâng cấp, mở rộng mạng lưới cung cấp nước sạch tại các nhà máy nước. Đặc biệt, mạng lưới cấp nước trên khu vực các cồn, khu vực nông thôn nơi chưa có nguồn nước sạch.
Sẵn sàng phương án đấu nối, hòa mạng, bổ cấp nguồn nước giữa các nhà máy nước bao gồm các nhà máy nước tư nhân để bảo đảm cung cấp đủ lượng nước ngọt hoặc nước có độ mặn thấp nhất để phục vụ nhu cầu sinh hoạt, sản xuất của nhân dân.
Bảo trì, bảo dưỡng, bảo đảm hoạt động của các hệ thống RO đã được trang bị. Ưu tiên phương án tạo nguồn cấp nước cho các nhà máy nước phục vụ cấp nước đô thị, các khu, cụm công nghiệp...
Kịp thời thống kê, báo cáo tình hình thiệt hại do hạn, mặn gây ra. Chủ động bố trí ngân sách địa phương để thực hiện các chính sách hỗ trợ theo quy định.
Được biết, trong mùa khô 2023 - 2024, tình trạng xâm nhập mặn diễn ra sớm, sâu và kéo dài hơn so với trung bình nhiều năm (2012 - 2023) - tương đương với mùa khô 2015 - 2016 và ít sâu hơn mùa khô 2019 - 2020. Dù xâm nhập mặn vẫn gây thiệt hại với giá trị trên 100 tỷ đồng.
Tuy nhiên, con số này thấp hơn rất nhiều so với thiệt hại của mùa khô năm 2015 - 2016 (1.800 tỷ đồng) và 2019 - 2020 (2.800 tỷ đồng). Đạt được kết quả này là nhờ sự đồng thuận, nỗ lực của cả hệ thống chính trị và nhân dân toàn tỉnh.