 |
| Nuôi cá da trơn ven sông Tiền. Ảnh: H.H |
Theo kỹ sư Võ Đình Linh, hiện Trung tâm Giống thủy sản tỉnh có gần 1.000 con cá bố mẹ, đã sản xuất khoảng 1 tỷ con giống, trong đó tại trung tâm 300 triệu con, các vệ tinh 700 triệu con, đáp ứng đủ nhu cầu giống nuôi trong tỉnh. Trung tâm vừa tổ chức hội thảo giữa các doanh nghiệp, người nuôi và tham quan thực tế tại cơ sở để có sự liên kết chặt chẽ, tránh sử dụng giống trôi nổi, không đảm bảo chất lượng. Đây là một thành công lớn của dự án, góp phần tạo nguồn giống sạch bệnh, giúp người nuôi yên tâm.
Trung tâm Giống thủy sản vừa chuyển giao thành công qui trình ương cá tra từ cá bột lên cá giống tại Sơn Đông-TXBT. Dự án có tổng vốn đầu tư trên 1,3 tỷ đồng, trong đó Sở Khoa học và Công nghệ hỗ trợ 40%. Đây là qui trình mới, có thể áp dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh.
Theo ông Võ Đình Linh - Giám đốc Trung tâm Giống thủy sản tỉnh, mục tiêu của qui trình là cung cấp giống cá khỏe, kích cỡ đồng đều, tỷ lệ sống cao, rõ nguồn gốc; ít sử dụng thuốc, hóa chất, kháng sinh, hạn chế ô nhiễm môi trường; xây dựng được thương hiệu cá giống, hình thành các vệ tinh liên kết hỗ trợ sản xuất và tiêu thụ cá giống. Các bước được tiến hành như sau: Chọn trại cung cấp cá bột uy tín, gần nhà, nguồn gốc cá mẹ rõ ràng, kỹ thuật nuôi dưỡng cá mẹ và cho đẻ tốt, có qui trình ương, tuyển chọn và vận chuyển cá bột tốt. Bể ấp thay nước sạch, cá khỏe, đều. Tiêu chuẩn nhỏ hơn 1.500 con/cc, cá đã nở 20-25 giờ. Nhu cầu thức ăn, khi cá hết noãn hoàng và bắt đầu dinh dưỡng bắt mồi sau khi nở khoảng 27 giờ. Cá bột thích thức ăn ban đầu là tươi sống, có mùi tanh. Để tăng tỷ lệ sống, đồng đều, khỏe, tốt nhất nên cải tạo ao và bổ sung thức ăn theo nhu cầu cá từng giai đoạn. Xây dựng ao phải thuận tiện giao thông, nguồn nước tốt, không nhiễm mặn, bờ ao an toàn, không rò rỉ nước. Ao ương thường có diện tích 2.000-10.000m2, độ sâu từ 1,5m-2m, ao lắng diện tích tối thiểu bằng 30% ao ương. Dùng lưới ngăn các loại cá dữ, dịch hại. Cải tạo ao bằng cách tát cạn, sên vét bùn, diệt cá tạp, bón vôi. Cấp nước, gây màu, nước cấp chậm và qua lưới lọc. Thả cá bột mật độ 800-1.000 con/m2, thời gian thả sau khi sinh nở khoảng 20-25 giờ. Thường thả cá vào buổi sáng, nếu ao có sục khí oxy thì chạy trước khi thả khoảng 2 giờ nhằm tăng hàm lượng oxy trong đáy ao.
Chăm sóc, quản lý khai thác cũng cần đặc biệt chú trọng. Chỉ thay nước khi cần thiết. Lọc cá, khi ao ương đạt tỷ lệ sống cao và cá không đều, tạo cỡ đồng đều và hạn chế cá ăn lẫn nhau. Các giai đoạn cần lọc, cỡ cá 2.000con/1kg, 1.500 con/1kg, 1.000 con/kg, 500 con/kg. Sang ao, chuyển cá đang ương sang ao khác khi ương từ hương lên giống, hoặc khi ao ô nhiễm, cá bệnh không thể xử lý môi trường. Cách sang, dùng lưới kéo. Vận chuyển, dùng túi đóng bao ôxy, xô chậu. Trước khi thu hoạch cho cá nhịn ăn 2-3 ngày kết hợp hạ nước trong ao. Xác định trọng lượng và kích cỡ cá.