Đại biểu Võ Văn Hội: Công tác phòng cháy, chữa cháy phải theo phương châm “4 tại chỗ” và dựa vào lực lượng của toàn dân 

20/06/2024 - 11:17

BDK.VN - Chiều 19-6-2024, tiếp tục Chương trình đợt 2 Kỳ họp thứ 7, Quốc hội thảo luận tại Tổ về Dự án Luật Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ (PCCC-CNCH), Dự án Luật Phòng không nhân dân. Tổ thảo luận số 9 gồm: Đoàn đại biểu Quốc hội các tỉnh: Quảng Ninh, Quảng Trị, Phú Yên và Bến Tre.

Đại biểu Võ Văn Hội phát biểu tại phiên thảo luận Tổ chiều 19-6-2024.

Tham gia thảo luận tại Tổ, đại biểu Võ Văn Hội, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh, đại biểu Quốc hội đơn vị tỉnh Bến Tre thống nhất cao với sự cần thiết phải ban hành Luật PCCC-CNCH và Luật Phòng không nhân dân, cũng như Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội đối với hai dự thảo Luật này.

Đại biểu cho rằng Luật PCCC-CNCH được ban hành nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan hiện nay, vì thời gian qua, tình hình cháy nổ diễn ra rất phức tạp ở nhiều khu vực, nhất là ở các đô thị lớn. Việc ban hành Luật này thực hiện theo Kết luận số 19-KL/TW ngày 14-10-2021 của Bộ Chính trị về định hướng chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV cũng như Nghị quyết số 99/2019/QH14 ngày 27-11-2019 của Quốc hội về việc tiếp tục hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật về PCCC.

Qua nghiên cứu, đại biểu góp ý về nguyên tắc PCCC-CNCH (Điều 5), đại biểu đề nghị bổ sung, chỉnh sửa tên Điều 5 thành: “Nguyên tắc và phương châm PCCC-CNCH”, đồng thời, bổ sung thêm một khoản vào Điều 5 quy định về phương châm “4 tại chỗ” trong công tác PCCC-CNCH gồm: “Chỉ huy tại chỗ, lực lượng tại chỗ; Phương tiện vật chất tại chỗ và Hậu cần tại chỗ” nhằm đảm bảo tính kịp thời, hiệu quả của công tác này.

Về lực lượng PCCC-CNCH, Điều 40 dự thảo Luật quy định bao gồm 4 lực lượng: Lực lượng dân phòng; Lực lượng PCCC-CNCH cơ sở; Lực lượng PCCC-CNCH chuyên ngành; Lực lượng Cảnh sát PCCC-CNCH. Đại biểu cho rằng trước khi đi vào các lực lượng nòng cốt trên, Luật cần nhấn mạnh công tác PCCC-CNCH là trách nhiệm của toàn dân phải tham gia, có quy định rõ thì mới tạo cơ sở pháp lý để tuyên truyền rộng rãi cho người dân nâng cao nhận thức, tinh thần cảnh giác, trách nhiệm trong phòng cháy, chữa cháy, cũng như thuận lợi trong việc huy động lực lượng tại chỗ tham gia chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ.

Về trách nhiệm quản lý nhà nước về PCCC-CNCH (Điều 61), ngoài trách nhiệm của Chính phủ, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an như trong dự thảo Luật, đại biểu đề nghị bổ sung trách nhiệm của Bộ Xây dựng trong quản lý nhà nước về quy hoạch, xây dựng, kiến trúc; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn liên quan đến công tác phòng, chống cháy rừng và Bộ Công Thương liên quan đến quản lý kinh doanh hàng hóa, vật liệu dễ cháy, nổ.

Đối với Luật Phòng không nhân dân, đại biểu cho rằng Luật này ra đời để đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện nay cũng như trong tương lai, trong tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, nhiều cuộc chiến tranh, xung đột đã và đang diễn ra thì việc phòng thủ đất nước phải được gia tăng ở mọi mặt trận, trong đó, phòng không nhân dân là một bộ phận quan trọng của phòng thủ dân sự.

Về nguyên tắc tổ chức hoạt động phòng không nhân dân (Điều 3), đại biểu đề nghị bổ sung thêm một khoản quy định nguyên tắc “Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn dân”.

Về hệ thống chỉ huy phòng không nhân dân (Điều 10), đại biểu thống nhất nhưng đề nghị quy định rõ: “Ban chỉ huy quân sự các cấp là cơ quan thường trực của cơ quan chỉ đạo phòng không cùng cấp”.

Về lực lượng thực hiện nhiệm vụ phòng không nhân dân (Điều 11), ngoài các lực lượng chuyên trách, lực lượng kiêm nhiệm được nêu tại Điều 11, đại biểu đề nghị nên nhấn mạnh “Lực lượng của toàn dân” trong thực hiện nhiệm vụ phòng không nhân dân. Điều này cũng phù hợp với Luật Quốc phòng và Luật Phòng thủ dân sự.

Về tổ chức lực lượng phòng không nhân dân (Điều 12), ngoài các lực lượng chính quy, lực lượng kiêm nhiệm như đã nêu trong dự thảo Luật, đại biểu đề nghị bổ sung thêm Lực lượng Biên phòng và Lực lượng Công an tham gia thực hiện phòng không nhân dân để huy động kịp thời, đầy đủ sức mạnh, phương tiện của các lực lượng này thực hiện nhiệm vụ được hiệu quả khi có tình huống xảy ra.

Về xây dựng kế hoạch phòng không nhân dân (Điều 19), tại điểm đ, khoản 3, Điều 19 dự thảo Luật quy định: “Tổ chức chỉ đạo, điều hành; hiệp đồng bảo đảm; các mốc thời gian chính”. Đại biểu đề nghị cần tách nội dung “các mốc thời gian chính” ra thành một điểm riêng vì đây là nội dung quan trọng trong xây dựng Kế hoạch phòng không nhân dân nên cần được quy định riêng cho rõ.

Về xây dựng công trình phòng không nhân dân (Điều 25), tại khoản 2 có quy định: “Việc xây dựng công trình phòng không nhân dân phải theo quy hoạch, kế hoạch, gắn với thế trận phòng thủ của cấp tỉnh, cấp huyện; bảo đảm kết hợp với kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và quy định của pháp luật có liên quan”, đại biểu đề nghị bổ sung cụm từ “phát triển đô thị” và chỉnh sửa thành “Việc xây dựng công trình phòng không nhân dân phải theo quy hoạch, kế hoạch, gắn với thế trận phòng thủ của cấp tỉnh, cấp huyện; bảo đảm kết hợp với kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, phát triển đô thị và quy định của pháp luật có liên quan”. Tại khoản 4 có quy định: “Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp xác định các khu vực, phương án sơ tán, phòng tránh cho người lao động và nơi cất giữ tài sản khi có tình huống chiến tranh xảy ra”.

Đại biểu cho rằng người đứng đầu cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp không thể tự mình xác định khu vực, phương án sơ tán, phòng tránh và nơi cất giữ tài sản khi có tình huống chiến tranh xảy ra, mà phải căn cứ vào kế hoạch phòng không nhân dân của cấp chính quyền sở tại để xác định các khu vực, phương án này. Nếu để mạnh ai nấy xác định khu vực, phương án sơ tán, không theo kế hoạch, hướng dẫn của địa phương thì lúc có tình huống xảy ra rất dễ dẫn đến sự hỗn loạn. Do đó, đề nghị bổ sung, chỉnh sửa quy định trên như sau “Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp xác định các khu vực, phương án sơ tán, phòng tránh cho người lao động và nơi cất giữ tài sản khi có tình huống chiến tranh xảy ra theo kế hoạch phòng không nhân dân của cấp chính quyền sở tại”.

Về đăng ký, khai thác, sử dụng tàu bay không người lái, phương tiện bay siêu nhẹ (Điều 29), tại khoản 3 về thẩm quyền cấp phép bay, dự thảo Luật quy định: “a) Bộ Quốc phòng cấp phép cho các chuyến bay của tàu bay không người lái, phương tiện bay siêu nhẹ, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản này; b) Bộ Công an cấp phép bay cho các chuyến bay của tàu bay không người lái, phương tiện bay siêu nhẹ của Bộ Công an trong thực hiện các nhiệm vụ thực thi pháp luật và thông báo đến Bộ Quốc phòng để phối hợp”. Đại biểu cho rằng hiện nay tàu bay không người lái và các phương tiện bay siêu nhẹ được người dân, tổ chức, doanh nghiệp sử dụng ngày càng phổ biến trong nhiều lĩnh vực của đời sống, nếu như tất cả đều giao cho Bộ Quốc phòng cấp phép thì chưa thật sự hợp lý.

Như việc sử dụng phương tiện bay siêu nhẹ trong các lễ hội chẳng hạn, nếu cũng do Bộ Quốc phòng cấp phép thì sẽ gây quá tải công việc cho cấp trên, còn người xin cấp phép phải chờ đợi mất thời gian. Đại biểu đề nghị Luật nên quy định theo hướng xác định rõ loại phương tiện nào, sử dụng vào mục đích gì thì thuộc thẩm quyền cấp phép của Bộ Quốc phòng, còn lại những loại phương tiện sử dụng vào các mục đích dân sự, thương mại, vui chơi, giải trí…thì nên phân cấp thẩm quyền cho các Quân khu, Bộ Chỉ huy quân sự các tỉnh, thành phố để các cơ quan này phối hợp với lực lượng Công an trên địa bàn xem xét, quyết định cấp phép sẽ thuận lợi hơn, vừa giảm tải công việc dồn về trên, vừa giảm thủ tục, thời gian chờ đợi của tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp.

Về trách nhiệm quản lý nhà nước về phòng không nhân dân, đại biểu đề nghị bổ sung thêm trách nhiệm của Bộ Xây dựng liên quan đến việc xây dựng các công trình có tính lưỡng dụng và của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc đưa nội dung phòng không nhân dân vào chương trình giáo dục ở các cấp học.

Tin, ảnh: Ái Thi

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN