
Mặn đã xâm nhập sâu vào các sông trên địa bàn tỉnh.
Độ mặn cao nhất đo được trong nguồn nước thô và độ mặn nước sau xử lý tại các khu vực cấp nước như sau: Khu vực huyện Ba Tri, độ mặn cao nhất trong nguồn nước thô dao động từ 1,2 - 6,2‰; độ mặn nước sau xử lý dao động từ 1,2 - 6,1‰.
Khu vực huyện Bình Đại, độ mặn cao nhất trong nguồn nước thô dao động từ 2,5 - 5,3‰; độ mặn nước sau xử lý dao động từ 1,9 - 5,1‰.
Khu vực huyện Thạnh Phú, độ mặn cao nhất trong nguồn nước thô dao động từ 1,8 - 6,2‰, độ mặn nước sau xử lý dao động từ 1,8 - 6,1‰.
Khu vực huyện Giồng Trôm, độ mặn cao nhất trong nguồn nước thô dao động từ 2,2 - 8‰, độ mặn nước sau xử lý dao động từ 2,2 - 7,9‰.
Khu vực huyện Mỏ Cày Bắc, độ mặn cao nhất trong nguồn nước thô dao động từ 0,2 - 8,6‰, độ mặn nước sau xử lý dao động từ 0,2 - 5,9‰.
Khu vực huyện Mỏ Cày Nam, độ mặn cao nhất trong nguồn nước thô dao động từ 0,4 - 1,8‰, độ mặn nước sau xử lý dao động từ 0,4 - 1,8‰.
Khu vực huyện Châu Thành, độ mặn cao nhất trong nguồn nước thô dao động từ 0,3 - 2,7‰; độ mặn nước sau xử lý dao động từ 0,3 - 2,6‰.
Trung tâm thường xuyên kiểm tra độ mặn tại các nguồn nước khai thác, theo dõi dự báo tình hình xâm nhập mặn của Đài Khí tượng thủy văn tỉnh. Giảm khai thác vào thời điểm độ mặn tăng cao tại các nhà máy. Cập nhật thông tin đo độ mặn cho UBND các xã thông báo kịp thời đến người dân được biết để có kế hoạch hợp lý. Trung tâm phối hợp với Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Bến Tre theo dõi lịch vận hành các cống ngăn mặn trữ ngọt để đảm bảo độ mặn và chất lượng nước cấp cho các nhà máy nước (NMN) hoạt động.
Trung tâm thực hiện giảm 10% giá tiêu thụ nước sạch cho khách hàng sử dụng nước bị ảnh hưởng mặn tại các NMN trực thuộc trung tâm trong mùa hạn mặn 2023-2024 theo Công văn số 2105/UBND-TCĐT ngày 5-4-2024 của UBND tỉnh. Thời gian thực hiện, 2 kỳ hóa đơn tiền nước, kỳ 4-2024 và kỳ 5-2024 (giảm giá cho m3 nước sử dụng trong tháng 3 và 4-2024).
Các NMN trực thuộc Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh vẫn hoạt động cấp nước ổn định, đảm bảo cung cấp đủ lượng nước qua hệ thống lọc RO cho nhu cầu ăn uống của người dân. Vận hành hệ thống lọc RO tại các NMN Tân Mỹ, An Phú Trung, huyện Ba Tri; Tân Hào, Hưng Nhượng, Phước Long, Lương Phú, huyện Giồng Trôm; Long Định, Thới Lai, huyện Bình Đại; Thạnh Phú, Hòa Lợi, Phú Khánh, huyện Thạnh Phú; Tiên Thuỷ, Hữu Định, huyện Châu Thành (khối lượng cấp trong kỳ báo cáo 338m3, lũy kế cấp nước qua RO: 1.777m3). Tiếp tục vận hành mạng lưới cấp nước đã kết nối, chuyển nước ngọt từ các nhà máy có nước ngọt, độ mặn thấp đến nơi có độ mặn cao. Tiếp tục mua nước từ Công ty cổ phần Cấp thoát nước Bến Tre, Công ty cổ phần Sản xuất và Thương mại NID và Công ty TNHH Cấp thoát nước Mỏ Cày cấp nước cho người dân vào những ngày độ mặn tăng cao.
Trung tâm tiến hành vận chuyển nước từ NMN Tân Thanh Tây về UBND xã Thạnh Ngãi, thực hiện cấp nước ngọt tập trung cho khoảng 160 người dân trên địa bàn ấp Gia Thạnh, xã Thạnh Ngãi (đang sử dụng nước NMN Thạnh Ngãi). Tổng khối lượng cấp trong kỳ là 33m3 (lũy kế vận chuyển nước 49m3); chờ kết quả trả lời của Công ty cổ phần Cấp thoát nước Bến Tre về lắp đặt đồng hồ tổng.
Trung tâm đã hoàn thành lắp đặt thiết bị khai thác nước từ các giếng quan trắc nước dưới đất và cấp nước cho người dân từ ngày 17-4 2024, khối lượng cấp trong kỳ 2m3 (thực hiện theo Kế hoạch số 339/KH-TTN ngày 2-4-2024 của Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh về việc tổ chức khai thác, sử dụng nước dưới đất tại các giếng quan trắc nước dưới đất thuộc mạng lưới quan trắc quốc gia).
Lắp đặt 350 đồng hồ nước cho khu vực cù lao Long Thành, đã tiến hành mở nước phục vụ người dân từ ngày 15-4-2024.
Tin, ảnh: Trần Quốc