Phong thái và tấm lòng của Chủ tịch Hồ Chí Minh - người đứng
đầu Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã chinh phục được tình cảm của
giới trí thức tại thủ đô nước Pháp, dù buổi họp mặt ấy thật là ngắn ngủi. Cuộc
tiếp kiến với Hồ Chủ tịch tại Paris
như bước ngoặt rất quan trọng trong cuộc đời kỹ sư Nguyễn Ngọc Nhựt.
Là một kỹ sư tạo tác tài năng, giàu kinh nghiệm, từng làm
chuyên viên kỹ thuật cho các hãng kinh doanh của Pháp, Công ty kênh đào Suez đã
từng ngỏ ý mời ông về làm tại công ty này, cha vợ lại là giám đốc của một công
ty lớn ở Pháp, có nhiều uy tín và giàu có, Nguyễn Ngọc Nhựt có đủ điều kiện để
ung dung hưởng thụ cuộc sống giàu sang trong một xã hội tư bản phát triển, vào
thời kỳ sau chiến tranh thế giới thứ II.
Nhưng, sau lần gặp gỡ ấy, những lời nói gần gũi, chân tình
của Hồ Chủ tịch về vận nước đang bị đe dọa bởi các thế lực ngoại bang cứ vang
vọng trong tâm tưởng, khiến tình yêu quê hương, đất nước trong Nguyễn Ngọc Nhựt
như thôi thúc, trào dâng mãnh liệt.
Biết được Nguyễn Ngọc Nhựt có ý định trở về Việt Nam phụng
sự “Chính phủ Cụ Hồ”, gia đình vợ phản đối và ngăn cản. Trải qua nhiều đêm phân
vân, giằng xé, cuối cùng Nguyễn Ngọc Nhựt đành nói với vợ những lời thật như
máu thịt: “Anh có Tổ quốc của anh và em có Tổ quốc của em”. Sự quả quyết đó đã
đưa Nguyễn Ngọc Nhựt đến quyết định: từ bỏ cuộc sống giàu sang, tạm biệt người
vợ trẻ đang thời xuân sắc trên đất Pháp, về nước dấn thân vào cuộc kháng chiến
của “Chính phủ Cụ Hồ” vì nền độc lập tự do cho Tổ quốc, chống lại ách thống trị
của thực dân Pháp đã kéo dài gần non thế kỷ.
Cuối năm 1946, với sự
giúp đỡ của kỹ sư Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt làm căn cước giả, rồi trà
trộn trong số lính thợ Việt Nam ONS, đáp tàu thủy về Sài Gòn.
Một ngày đầu năm 1947, Nguyễn Ngọc Nhựt đã về đến quê nhà.
Ông đã gặp và xin chỉ giáo của cha - Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương tại căn
lầu “Thiên lý Mật truyền” nơi Tịnh xá.
Một tuần sau, Nguyễn Ngọc Nhựt bắt liên lạc với cơ sở cách
mạng, ra vùng kháng chiến tại chiến khu Đồng Tháp Mười.
Vào những ngày đầu bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, lực lượng vũ trang của ta còn rất non yếu, vũ khí, đạn dược vô cùng thiếu
thốn. Với kiến thức của một kỹ sư tạo tác, Nguyễn Ngọc Nhựt lao ngay vào công
việc, tổ chức hướng dẫn công nhân sửa chữa vũ khí, sản xuất đạn dược ở Công
binh xưởng Khu 8, góp phần rất lớn trong việc giải tỏa những khó khăn về vũ khí
của lực lượng vũ trang ở Nam Bộ.
Tháng 10-1947, Nguyễn Ngọc Nhựt được bầu vào cương vị
Phó Chủ tịch Cao Đài Cứu quốc 12 phái Hiệp nhứt, do Chưởng Pháp Cao
Đài Minh Chơn Đạo - Cao Triều Phát làm Chủ tịch (*). Đầu năm 1948, kỹ sư
Nguyễn Ngọc Nhựt được bầu làm ủy viên phụ trách công tác thương binh -
xã hội của Ủy ban Kháng chiến Hành chánh (KCHC) Nam Bộ khi ông tròn 30
tuổi, trở thành thành viên trẻ nhất ở cương vị lãnh đạo trong Ủy ban KCHC Nam
Bộ lúc bấy giờ. Với vai trò này, ông đã có nhiều đề xuất quan trọng trong công
tác vận động các tôn giáo tham gia kháng chiến cứu quốc. Đặc biệt, kỹ sư Nguyễn
Ngọc Nhựt đã “hóa giải” sự hiểu lầm giữa cán bộ Việt Minh và tín đồ
Cao Đài ở Mộc Hóa. Do bị Pháp kích động, một số tín đồ, chức sắc
ở đây công khai tỏ thái độ thù địch, chống Việt Minh. Nguyễn Ngọc
Nhựt đã có mặt, giải thích và đưa hơn 2.000 đạo hữu thoát khỏi nạn
chia rẽ, can qua. Chỉ với việc này, ông đã làm thất bại âm mưu đen tối của
thực dân Pháp trong việc lôi kéo tín đồ Cao Đài, hòng cô lập phong trào cách
mạng ngay giữa lòng căn cứ địa. Sự kiện ấy đã được những người viết sử Cao Đài
Ban Chỉnh Đạo tán dương, cho rằng Anh Lớn Khai Đạo Nguyễn Ngọc Nhựt đã
hoàn thành sứ mạng “Thần Đạo” thật vẻ vang, trên bước đường hành đạo.
Nhưng rồi ngày 2-6-1949, Nguyễn Ngọc Nhựt bị bắt tại
bờ kênh Nguyễn Văn Tiếp (gần chợ Cái Bèo thuộc tỉnh Sa Đéc cũ - nay là
tỉnh Đồng Tháp) trong cuộc hành quân tảo thanh đại quy mô của quân Pháp,
nhằm tìm diệt hai Tiểu đoàn 307 và 309 đang đóng quân bảo vệ căn cứ
Đồng Tháp Mười. Do có điệp báo cài vào vùng căn cứ nên ngay sau khi bị bắt,
thân thế Nguyễn Ngọc Nhựt đã bại lộ. Khi sa vào tay giặc, Nguyễn Ngọc Nhựt thà
chịu đòn roi tàn khốc, thà chết, quyết không khai báo nửa lời về vùng căn cứ
địa, cũng như những đồng chí trong Ủy ban KCHC Nam Bộ.
Hết Bazin - Thanh tra Mật thám, kiêm Giám đốc PSE (Ty
Đặc cảnh miền Đông) là “trùm mật thám Nam Kỳ”, đến tướng De Latour - Tư lệnh
quân viễn chinh Pháp tại Nam Kỳ ra sức dụ dỗ, đe dọa, cố lôi kéo ông tham gia
chính phủ bù nhìn Bảo Đại, với chức vụ Bộ trưởng Công chánh hoặc Quốc phòng,
nhưng Nguyễn Ngọc Nhựt đã kiên quyết chối từ. Trong tù, qua cơ sở bí mật của
cách mạng, ông viết thư gửi về chiến khu, khẳng định: “Tôi sẽ không bao giờ
nhận định một cách sai lạc đường đi, lối bước đã chọn”.
Biết không thể lung lạc được Nguyễn Ngọc Nhựt, Thiếu tướng
Boyer De Latour và trùm mật vụ Bazin đã gửi thư đề nghị Đức Giáo tông Nguyễn
Ngọc Tương viết giấy bảo lãnh, để có “lý do” trả tự do cho đứa con của Ngài.
Nhưng, bằng sự minh triết của bậc chân tu đắc đạo, nhận rõ ý đồ của nhà cầm
quyền muốn lợi dụng tình riêng thao túng nền đạo và vì tôn trọng sự lựa chọn lý
tưởng của con mình, Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương đã viết thư phúc đáp Thiếu
tướng Boyer De Latour và trùm mật vụ Bazin bằng những dòng chữ thật cô đọng:
“Con trai tôi đã trưởng thành. Tôi không thể dùng quyền lực người cha
ép buộc nó. Nó có sứ mạng riêng của nó”.
Thất bại trước người cha can đảm, Thiếu tướng Boyer De
Latour và trùm mật vụ Bazin lại tung đòn hiểm hóc sau cùng: đưa Clodine - vợ
ông từ Pháp về Sài Gòn, đến bót Catina, dùng tình cảm vợ chồng để mong đánh quỵ
ý chí và lòng trung thành của Nguyễn Ngọc Nhựt. Dù vợ ông đã cầu khẩn, van xin
ông viết giấy “đầu thú” để được tha bổng, gia đình được sum họp, nhưng Nguyễn
Ngọc Nhựt đã cự tuyệt. Trở về Pháp trong tâm trạng thất vọng, cô đơn, Clodine
trầm cảm rồi sinh bệnh tâm thần, gia đình Nguyễn Ngọc Bích - anh trai ông phải
cưu mang Clodine, ít lâu sau bà qua đời. Nếu không vì cách mạng, không vì lý
tưởng độc lập cho dân tộc, tự do cho Tổ quốc, không vì lòng tôn kính và tin
tưởng Bác Hồ, chắc chắn Nguyễn Ngọc Nhựt sẽ không phải đứng trước sự lựa chọn
nghiệt ngã giữa: Tổ quốc - tình riêng, và gia đình ông sẽ không rơi vào bi
kịch.
Hết cách chiêu hàng, nhà cầm quyền thực dân đã dùng đến thủ
đoạn tàn độc, đê hèn nhất - chúng tiêm thuốc gây rối loạn thần kinh - với hy
vọng bẩn thỉu nhằm moi được những điều bí mật ở nơi ông.
Nhưng lòng yêu kính vị lãnh tụ của cách mạng Việt Nam đã tạo
nên một xung lực tinh thần mãnh liệt, nhân kỷ niệm sinh nhật lần thứ 59 của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Nguyễn Ngọc Nhựt đứng diễn thuyết giữa hàng trăm bạn tù về
tính chính nghĩa và sự tất thắng của cách mạng Việt Nam. Khi tên cai ngục nhìn
thấy hàng chữ trên tường: “Tù nhân Ca-ti-na kỷ niệm sinh nhật lần thứ 59 của
Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 19-5-1949 - do kỹ sư Nguyễn Ngọc Nhựt, Ủy viên Ủy ban
KCHC Nam Bộ chủ tọa và thuyết trình”, chúng lập tức báo cáo đến Thiếu tướng
Boyer De Latour và trùm mật vụ Bazin. Hốt hoảng trước Nguyễn Ngọc Nhựt, chúng
đã áp giải ông về Khám lớn Sài Gòn, tiếp tục tiêm thuốc hoại não như để diệt
trừ một hiểm họa.
(*) Cả ba người con
trai của Đức Giáo Tông từ nhỏ đã tu theo Đạo Cao Đài, được thiên phong các phẩm
vị ở Hiệp Thiên Đài như: Hiến Thế Nguyễn Ngọc Hớn, Hiến Pháp Nguyễn Ngọc Bích,
Khai Đạo Nguyễn Ngọc Nhựt. Theo phẩm vị và cách
xưng hô thì bổn đạo ở Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo đều gọi ba vị là
Anh Lớn.
Bệnh tình của
Nguyễn Ngọc Nhựt ngày càng trầm trọng hơn, nhưng trong những ngày bị giam tại
Khám Lớn Sài Gòn, ông đã cố gắng chống chọi với những cơn điên loạn, cầm cự và
chế ngự từng cơn đau đầu dữ dội để nắn nót và cẩn trọng viết đầy tấm bảng trong
hội trường nhà giam hàng chữ “Hồ Chí Minh”, khiến bọn cai ngục thêm nhiều phen
kinh sợ.
Sức khỏe của
Nguyễn Ngọc Nhựt ngày một suy kiệt, nhà cầm quyền thực dân chuyển ông sang Nhà
thương điên Biên Hòa giam lỏng. Gần một năm sau, ngày 16-5-1952, ông hy sinh. Năm
ấy, kỹ sư Nguyễn Ngọc Nhựt vừa tròn 34 tuổi.
Nghe tin Nguyễn
Ngọc Nhựt hy sinh, Bác Hồ nghẹn ngào nói: “Luật sư Thái Văn Lung, kỹ sư Nguyễn
Ngọc Nhựt - hai trí thức Nam Bộ chết sớm quá! Đó thật sự là những “người quân tử
mới” của Việt Nam!”.
Bác đã gửi điện cho Ủy ban Kháng chiến hành chánh (KCHC) Nam Bộ, chỉ thị các cơ
quan làm lễ truy điệu Nguyễn Ngọc Nhựt. Chính phủ đánh điện chia buồn với Ủy
ban KCHC Nam Bộ và gia quyến. Hồ Chủ tịch và Chính phủ truy tặng cho liệt sĩ, kỹ
sư Nguyễn Ngọc Nhựt Huân chương kháng chiến hạng Nhất.
Trong bức điện
chia buồn của Ủy ban KCHC Nam Bộ gửi gia đình kỹ sư Nguyễn Ngọc Nhựt có đoạn viết:
“… Quyết tâm hy
sinh đến hơi thở cuối cùng, nguyện toàn trung với nước, trọn hiếu với dân, ông
Nguyễn Ngọc Nhựt đã làm vẻ vang cho Ban Chỉnh Đạo Bến Tre và giới trí thức Việt
Nam.
Danh vọng không
cám dỗ được, tiền tài không mua chuộc được, uy vũ không khuất phục được, ông
Nguyễn Ngọc Nhựt đã giữ vẹn khí tiết của người chiến sĩ cách mạng, làm vẻ vang
cho cuộc kháng chiến Việt Nam…”
Từ sự cảm phục
phong thái, đức độ và đặt niềm tin trọn vẹn vào Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ
của cách mạng Việt Nam, cùng với những đại trí thức yêu nước ở thế kỷ XX như:
Thái Văn Lung, Dương Minh Châu, Phạm Văn Bạch, Phạm Ngọc Thuần, Bùi Thị
Cẩm, Phạm Thiều, Kha Vạn Cân, Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn
Văn Hưởng, Nguyễn Thiện Thành, Trương Công Trung..., Nguyễn Ngọc Nhựt đã tỏ
rõ lòng trung kiên với sự nghiệp cách mạng của dân tộc đến hơi thở cuối cùng, với
tâm thế đĩnh đạc của bậc thức giả và khí phách hiên ngang của một người cộng sản!
Tôi có vinh dự được
Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo mời làm chủ biên công trình nghiên cứu về “Đức
Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương” do Trường An biên khảo, nên có dịp tìm hiểu về
dòng họ Nguyễn Ngọc, trong đó có Nguyễn Ngọc Nhựt.
Với thiển nghĩ
của một người làm công tác bảo tồn di sản văn hóa, đã đến lúc, chúng ta cần
vinh danh kỹ sư Nguyễn Ngọc Nhựt, một trí thức tiêu biểu của Bến Tre ở thế kỷ
XX, đã hy sinh cả cuộc đời và những tình cảm riêng tư thiêng liêng nhất cho sự
nghiệp cách mạng.
Vinh danh Nguyễn
Ngọc Nhựt để các thế hệ mai sau hiểu biết đầy đủ hơn về sự cống hiến, hy sinh của
giới trí thức Việt Nam
nói chung và giới trí thức Nam Bộ, Bến Tre nói riêng, trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhưng bên cạnh những người công nhân
cùng khổ, những nông dân chân lấm tay bùn bị áp bức, những thương gia, tiểu chủ,
học sinh - sinh viên… giác ngộ cách mạng, còn có cả những người trí thức. Họ
chính là những tinh hoa của các phong trào cách mạng, ngoài “xương trắng máu đào”
điểm tô cho giang sơn gấm vóc, thì trí tuệ, tài năng của họ đã trở thành tâm điểm
của quá trình kết tinh một trí tuệ Việt Nam, vô hình nhưng vô địch, từng làm thất
bại rất nhiều loại kẻ thù.
Vinh danh Nguyễn
Ngọc Nhựt còn là vinh danh dòng họ Nguyễn Ngọc và Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương
- bậc chân tu của nền Đạo Cao Đài Ban Chỉnh, người cha đã 2 lần gác lại tình
riêng vì nghĩa lớn, vì thanh danh của một nền Đạo, một dân tộc. Kính phục trước
nghĩa khí và tấm lòng “thương nòi giống, mến quê hương” của Đức Giáo tông
Nguyễn Ngọc Tương, sinh thời cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt - nguyên Ủy viên
Bộ Chính trị, nguyên Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam đã viết: “Ông Nguyễn Ngọc Tương, người cha của liệt sĩ Nguyễn
Ngọc Nhựt, thà hy sinh hai người con yêu quý của mình, quyết không thỏa
hiệp, không hợp tác với thực dân Pháp... Có thể nói, gia đình Nguyễn
Ngọc Tương là một điển hình cho tầng lớp quan lại, địa chủ, tôn giáo
trí thức, “dân Tây” yêu nước của Nam Bộ thời đó. Với tâm hồn trong sáng,
không hề suy tính được, mất; sẵn sàng tham gia cách mạng, vứt bỏ mọi
giàu sang, danh vọng. Lòng yêu nước sâu sắc và nguyện vọng cháy bỏng được
làm người dân của một đất nước độc lập, tự do đã giúp họ vượt lên
tất cả, chịu đựng được mọi gian khổ - sự băn khoăn lớn nhất của họ,
để cùng đi với toàn dân tộc...”.
Điều đáng mừng
là lớp hậu bối luôn biết hướng về nguồn cội, luôn biết kính trọng tiền nhân và
xem đó như những tấm gương sáng để tự soi mình, để càng vững niềm tin hơn trong
hành trình tiến về phía trước.
Tôi thật sự vui
mừng và thổn thức khi viết những dòng này. Mừng là vì thời gian qua, lớp người
kế tục và các cơ quan chủ quản đã quan tâm đề nghị Nhà nước tuyên dương danh hiệu
“Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân” cho những học sinh - sinh viên như Trần
Văn Ơn và Nguyễn Thái Bình, nhưng còn kỹ sư Nguyễn Ngọc Nhựt - tại sao vẫn chưa?
Bởi, ngoài sự
hy sinh lớn lao và một tình yêu Tổ quốc thiết tha, vô tận, thì khí tiết và khí
phách như những hạt ngọc long lanh còn đọng mãi trong lòng hậu thế mỗi khi nhớ
về kỹ sư Nguyễn Ngọc Nhựt.
Khí tiết và khí
phách lẫm liệt đó phải chăng là thứ “nội lực” đặc biệt đã tạo nên một dũng khí
Nguyễn Ngọc Nhựt. Và, dũng khí ấy chính là những phẩm hạnh đáng kính trong phẩm
cách của bậc anh hùng!