Đổi mới công tác
tuyên truyền
Hiện nay, việc cung cấp kiến thức đúng và đủ cho cộng đồng
về HIV có thể coi là “vắc-xin” phòng bệnh cho người dân đối với HIV. Công tác
truyền thông được đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung như: tuyên truyền
trên đài truyền hình, đài phát thanh với chuyên mục “AIDS và sức khỏe cộng đồng”,
trên Báo Đồng Khởi với chuyên trang “Phòng, chống HIV/AIDS”, tuyên truyền qua tờ
rơi, tờ bướm, pa-nô, áp-phích, tập huấn, hội thảo, tọa đàm phòng, chống
HIV/AIDS cho các ban, ngành, đoàn thể, cơ quan, trường học, tổ nhân dân tự quản
đến hệ thống tuyên truyền viên đồng đẳng hay hoạt động phòng, chống HIV/AIDS tại
nơi làm việc.
Với sự chuyển biến về tư duy và chiến lược truyền thông:
từ tuyên truyền “HIV - tệ nạn xã hội”, HIV đồng nghĩa với cái chết…, tuyên truyền
theo kiểu “hù dọa” sang “giải thích”; từ đưa những hình ảnh tiêu cực sang những
hình ảnh tích cực hơn về đại dịch AIDS, giới thiệu dịch vụ chăm sóc và điều trị,
tư vấn xét nghiệm tự nguyện… Hiệu quả truyền thông tăng lên khi biết lấy những
đối tượng nguy cơ cao, người bán dâm, tiêm chích ma túy, người đồng tính… làm
những hạt nhân (còn gọi là tuyên truyền viên đồng đẳng) đi truyền thông trực tiếp
cho các “bạn cùng cảnh” của mình về HIV, từ che giấu, cấm đoán sang “vẽ đường
cho hươu chạy đúng đường”.
Hiện tại, ở Bến Tre đã xây dựng được một mạng lưới đồng đẳng
viên hoạt động tích cực với nhiệm vụ và chỉ tiêu giao rõ ràng. Triển khai các
hoạt động can thiệp giảm tác hại trên nhóm nghiện chích ma túy và người bán dâm
tại 5 huyện, thành phố: Mỏ Cày Nam, Mỏ Cày Bắc, Châu Thành, Ba Tri và TP. Bến
Tre.
Thái độ đối với người
nhiễm HIV chuyển biến tích cực
Mặc dù vẫn còn một số ít người dân còn kỳ thị, xa lánh
người nhiễm HIV nhưng đa số đã hiểu HIV không phải là tệ nạn xã hội, người nhiễm
HIV không phải là những người xấu, đáng lên án… thái độ đối với người nhiễm HIV
đã có phần tích cực và cảm thông, cộng đồng đã dần chấp nhận người nhiễm HIV
vào cộng đồng của mình. Từ đó, người dân cũng mạnh dạn hơn khi quyết định đi
xét nghiệm HIV để biết tình trạng nhiễm HIV của mình, hoặc nếu không may bị nhiễm
HIV, bệnh nhân cũng đã đến đăng ký chăm sóc và điều trị tại phòng khám ngoại
trú.
Từ việc hiểu đúng và đủ các kiến thức liên quan đến HIV,
người dân hiện nay ý thức hơn việc bảo vệ sức khỏe của mình. Theo ước tính, nhờ
có chương trình dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con mà nhiều trẻ em không bị
nhiễm HIV, số ca lây nhiễm HIV từ mẹ sang con đều giảm dần trong những năm gần
đây. Có trên 65% phụ nữ mang thai được xét nghiệm HIV. Tỷ lệ phụ nữ mang thai
có kết quả xét nghiệm HIV dương tính giữ mức dưới 0,2%. Tỷ lệ lây truyền HIV từ
mẹ sang con giảm dần qua các năm, từ 10% vào năm 2010 giảm xuống 3,7% vào năm
2015. Đến cuối năm 2015, xét nghiệm chẩn đoán sớm nhiễm HIV ở trẻ em đạt 100%,
đã có hàng trăm gia đình được bảo vệ khỏi đại dịch AIDS.
Đầu tư, mở rộng dịch
vụ chăm sóc và điều trị nhiễm HIV
Tư vấn xét nghiệm HIV được coi là đầu vào của các dịch vụ
dự phòng và chăm sóc - điều trị HIV/AIDS. Mười năm qua, công tác tư vấn xét
nghiệm HIV đã được thực hiện nhiều mô hình khác nhau từ tư vấn xét nghiệm tự
nguyện tập trung chủ yếu cho nhóm người có hành vi nguy cơ cao đến tư vấn xét
nghiệm HIV theo đề xuất của người cung cấp dịch vụ; từ tư vấn xét nghiệm HIV tại
các cơ sở y tế (trạm y tế và các trung tâm y tế huyện, thành phố) đến triển
khai tư vấn xét nghiệm HIV lưu động tại cộng đồng (tại quán nước…).
Toàn tỉnh hiện có 4 điểm tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện
được đặt tại trung tâm y tế dự phòng các huyện, thành phố như: TP. Bến Tre,
Châu Thành, Ba Tri, Mỏ Cày Nam, mỗi năm tiến hành trên 50 ngàn mẫu xét nghiệm
sàng lọc và khẳng định HIV, đặc biệt trong xét nghiệm phục vụ công tác điều trị.
Nếu như vào năm 2011 chỉ xét nghiệm đếm tế bào CD4 cho 480 ca, thì đến 2015 con
số tăng lên 1.539 ca, tăng trên 320% so với 5 năm trước. Năm 2010, Phòng Xét
nghiệm HIV tại Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS tỉnh đã được Bộ Y tế cấp phép khẳng
định kết quả xét nghiệm HIV, điều này làm rút ngắn thời gian trả kết quả và giảm
đáng kể chi phí vận chuyển các mẫu xét nghiệm.
Năm 2014, tỉnh cũng đã tiến hành điều trị các thuốc dạng
thuốc phiện bằng thuốc thay thế Methadone. Sau hơn 1 năm triển khai, tính đến
tháng 3-2016, số người đang được điều trị Methadone tại tỉnh đạt 84,33% so với
chỉ tiêu Thủ tướng Chính phủ giao, đứng thứ 9 trên toàn quốc. Việc điều trị
nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone cho thấy hiệu quả đáng kể trong
việc giảm và ngừng sử dụng ma túy, giảm các hành vi vi phạm pháp luật và phạm tội
ở người nghiện ma túy, hiệu quả về kinh tế.
Đẩy mạnh điều trị ARV
Chăm sóc và điều trị HIV/AIDS trong 10 năm qua đã đạt những
kết quả to lớn. Số lượng bệnh nhân được điều trị bằng thuốc ARV tăng dần qua
các năm, triển khai vào tháng 7-2005 đến cuối năm 2005 có 8 bệnh nhân, tăng lên
212 bệnh nhân vào năm 2010 và đến cuối năm 2015 tổng số bệnh nhân đang điều trị
là 953 (trong đó có 49 trẻ em). Tỷ lệ bệnh nhân đạt được tải lượng vi-rút HIV
dưới ngưỡng phát hiện là 93,8%. Bến Tre được xếp hạng thứ 8 trong top 10 tỉnh
có tỷ lệ bệnh nhân tiếp cận điều trị ARV cao so với cả nước.
Việc điều trị bằng thuốc ARV đã cứu được nhiều người khỏi
tử vong do HIV/AIDS, duy trì và nâng cao sức khỏe của người nhiễm HIV, góp phần
làm giảm lây nhiễm HIV cho cộng đồng. Kết quả của chương trình điều trị đã góp
phần không nhỏ vào sự tự tin, cởi mở của những người nhiễm HIV, giúp họ giảm mặc
cảm với gia đình và xã hội. Công tác chăm sóc và điều trị HIV/AIDS đang được
tích cực mở rộng, lồng ghép vào hệ thống y tế chung và phân tuyến về tuyến huyện
nhằm đảm bảo tính bền vững, tăng khả năng tiếp cận, giảm chi phí đi lại, tăng
cường tuân thủ điều trị của người bệnh.
Với tất cả những nỗ lực và phấn đấu không mệt mỏi của tập
thể cán bộ, công nhân, viên chức, Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS tỉnh vinh dự
được nhận bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, bằng khen của Ủy ban Quốc gia
Phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm, Cờ Thi đua của Bộ Y tế,
nhiều bằng khen của UBND tỉnh. Đó là món quà tinh thần, là động lực để tập thể
trung tâm phấn đấu hơn nữa, góp phần vào mục tiêu “Kết thúc đại dịch HIV/AIDS
vào năm 2030”.