Tổ chức Seed to table do chị Ino Mayu sáng lập, vận hành, kiêm nhiệm tất
cả mọi chức vụ. Nói cách khác, tổ chức này chỉ có “nhân sự” duy nhất là Ino
Mayu và vẫn làm việc duy nhất là nhân đạo.
Tính đến nay, chị Ino Mayu đã 19 năm đồng hành cùng người nghèo ở một số
vùng nông thôn Việt Nam, riêng Bến Tre chị cũng đã hoạt động chính thức kể từ
năm 2011. Với phương châm “cho cần câu và cách sử dụng chứ tuyệt đối không cho
con cá”, chị đã giúp rất nhiều hộ thoát nghèo, hoặc có đủ ý chí vươn lên thoát
nghèo. Lĩnh vực nông nghiệp được chị chọn làm nền tảng triển khai vì cho rằng
phù hợp với điều kiện nông thôn Việt Nam. Quan trọng hơn, song song với công việc
nhân đạo của mình, chị Ino Mayu đã kết nối sâu sắc hơn nữa tình cảm hữu nghị, gắn
bó giữa cộng đồng nhân dân 2 nước Việt - Nhật. Nhưng để thực hiện được khát vọng
đậm chất nhân văn ấy, bản thân chị Ino Mayu đã phải chấp nhận hy sinh rất nhiều!
Bỏ phố
lên rừng
Năm 1997, Ino Mayu tốt nghiệp đại học chuyên ngành Lịch sử, ở Tokyo, Nhật
Bản. Thay vì chọn một công việc ổn định theo chuyên môn tại thủ đô nước Nhật,
nơi chị sinh ra và lớn lên như biết bao phụ nữ khác, Mayu đã mạnh mẽ theo đuổi
khát vọng trở thành một nhà ngoại giao và kết nối văn hóa Nhật với các nước
khác, vốn được cô ươm mầm khi còn ngồi trong giảng đường. Để thực hiện điều đó,
Mayu xác định Đông Nam Á là “miền đất hứa”. Chị chia sẻ: “Tôi đã sang Việt Nam,
đơn giản vì tôi thấy cảm tình với văn hóa các bạn”. Để dỡ bỏ rào cản về ngôn ngữ,
cũng như hiểu thêm về văn hóa, Mayu đã tham gia khóa học 3 năm tại “Trung tâm
nghiên cứu về Việt Nam và giao lưu văn hóa”, tại Hà Nội, đây là nơi dành cho
sinh viên quốc tế muốn tìm hiểu về Việt Nam.
Trong thời gian 3 năm ấy, Ino Mayu được tạo nhiều điều kiện để tiếp xúc
với các vùng nông thôn Việt Nam. Đặc biệt, chị đã dành hẳn một năm ở Cao Bằng để
học thêm tiếng Nùng, cũng như tìm hiểu về văn hóa và mưu sinh của họ. Giữa năm
2000, Mayu về Tokyo để theo học Cao học ngành Xã hội học. Đầu năm 2003, luận án
“Cách quản lý rừng cộng đồng của người Nùng” được chị bảo vệ thành công. Từ
đây, cánh cửa khát vọng về giao lưu văn hóa quốc tế của chị chính thức rộng mở.
Chỉ sau ngày khi tốt nghiệp, tháng 3-2003, “Tổ chức tình nguyện quốc tế
Nhật Bản” đã mời Mayu làm việc tại Việt Nam. Lúc ấy là cuối tháng 3, thời gian
cận kề mùa hoa anh đào nở rộ và đó cũng là mùa hoa anh đào đầu tiên mà chị được
thảnh thơi chờ đợi để thưởng thức. Bởi, phần lớn thời gian đã qua trong đời
luôn bận bịu với việc học hành! Nhưng khát vọng tuổi trẻ, hình ảnh những người
nghèo ở nông thôn Việt Nam đã luôn ám ảnh và đã cuốn chị đi khi mới chỉ vài
cánh hoa anh đào mỏng manh rơi trên đường phố và bắt đầu tỏa hương thơm trên bầu
trời xứ sở, năm ấy.
Ino
Mayu và Tổ chức Seed to table
Tổ chức “Tình nguyện quốc tế Nhật Bản” tuyên bố kết thúc ở Việt Nam,
vào tháng 9-2009, đối với Ino Mayu là một kết thúc chưa trọn vẹn. Bởi, theo chị,
những người nghèo mà chị giúp đỡ vẫn chưa thật sự thoát nghèo bền vững, do sản
phẩm của họ chưa kết nối được với thị trường để có đầu ra ổn định bằng giá trị
cao. Mặt khác, khát vọng kết nối cộng đồng Việt - Nhật bằng văn hóa của chị chỉ
mới bắt đầu.
Ròng rã trong 6 tháng (từ tháng 8-2008 đến cuối tháng 4-2009), chị vừa
lên kế hoạch, vừa viết chương trình, dự án để thành lập Tổ chức Seed to table -
từ hạt giống đến bàn ăn. Giữa năm 2009, kế hoạch dự án của chị được Bộ Ngoại
giao của Nhật chấp nhận và cấp kinh phí ODA trong 3 năm cho hoạt động của tổ chức
này. Kết thúc dự án, rất nhiều người nghèo ở các tỉnh miền Bắc như Vĩnh Phúc,
Hà Nam khá lên, cùng với một vùng nguyên liệu chủ yếu là rau hữu cơ đầy giá trị
trên thị trường ở các vùng đô thị tại địa phương và xuất hiện cả ở TP. Hà Nội.
Mayu tạm yên tâm với những gì đã làm được tại miền Bắc, đồng thời lên sẵn
kế hoạch mang Seed to table Nam tiến. Trong hội nghị kết thúc dự án này, tổ chức
của chị có mời đại diện các Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư ở các tỉnh,
thành trong cả nước đến dự và phát biểu. Mayu cho biết chị rất ấn tượng với bài
phát biểu tâm huyết và nhiều băn khoăn với nông dân nghèo những vùng ven biển,
thường xuyên bị ảnh hưởng của thiên tai và biến đổi khí hậu của ông Phan Văn Khổng
- Giám đốc Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư Bến Tre, duyên nợ giữa chị và người
nghèo Bến Tre cũng chớm nở từ đó.
Mayu
và câu chuyện “hai mươi Năm con vịt”
Tiếp tục được Chính phủ Nhật Bản tài trợ kinh phí với Dự án “Cải thiện
sinh kế cho hộ nghèo bằng hữu cơ tại huyện Bình Đại”, chị Mayu xông xáo vào phối
hợp với Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư Bến Tre thực hiện. Tuy nhiên, mô
hình chăn nuôi vịt xen trong ruộng lúa của Mayu nhanh chóng… phá sản, do một số
điều kiện khách quan và sự tính toán chưa kỹ lưỡng của chị.
“Do thời điểm năm 2011 Bến Tre có dịch cúm gia cầm, những điều mà tôi
không ngờ là các hộ nghèo của Bình Đại có rất ít, thậm chí không có đất sản xuất
nên mô hình “lúa + vịt” thất bại ngay từ đầu. Trong khi nhiều nông dân nghèo đã
không tin vào 25 con vịt xiêm của tôi có thể thay đổi số phận họ. Buồn cười nhất
lúc đó, do ảnh hưởng của giọng Đông Bắc Bộ nên “hai mươi lăm con vịt” mà tôi lại
nói thành “hai mươi năm con vịt”, mới nghe đã kỳ cục nên người dân không hợp
tác với tôi ngay từ đầu cũng hợp lý” - chị Mayu vui vẻ kể lại.
Chị Mayu chia sẻ thêm, chăn nuôi vịt, rồi tận dụng những phế phẩm thực
vật có ngay tại nhà mình, kết hợp với trồng vườn rau sạch nho nhỏ để phong phú
hơn cho bữa ăn, cũng như có thức ăn phụ dồi dào cho vịt là một mô hình mà chính
tôi đã xác định là rất khả thi trên cơ sở tìm hiểu thật kỹ lưỡng cho địa phương
này. Hỗ trợ vốn nhiều hơn cho họ cũng không sao nhưng điều đó sẽ trở thành gánh
nặng lớn và bản thân họ cũng không đủ kinh nghiệm chăn nuôi, rủi ro là quá nhiều.
Trầy trật mãi nhưng nhờ vào sự cố gắng thuyết phục chân tình của mình, trong
năm 2011, tổ chức của chị đã giải ngân hỗ trợ được kinh phí 300 triệu đồng, cho
203 hộ nghèo, trong 3 xã Bình Thắng, Thạnh Phước và Đại Hòa Lộc. Đến năm 2015,
hiện con số này đã gần một ngàn hộ, với quy mô 7 xã và 60% trong số đó có lãi
và từng bước vươn lên thoát nghèo một cách bền vững.
Sứ giả
kết nối văn hóa cộng đồng
Từ thành công bước đầu, tổ chức của Ino Mayu nâng tầm quy mô thành mô
hình “ngân hàng bò” và vườn rau sạch lớn hơn tại một số xã có điều kiện tại
Bình Đại. “Vẫn theo sườn của nguyên lý cũ, tôi buộc người tham gia, ở từng cấp
độ, phải thực hiện đầy đủ như tham gia đầy đủ các lớp tập huấn, ghi chép theo
dõi kỹ lưỡng từng thời kỳ phát triển của đối tượng mình chăm sóc. Hay tôi dứt dạt
bỏ những hộ nghèo ở xã Phú Long, cho dù họ đã tha thiết mời tôi trở tại, tại vì
trước đó, họ đã bỏ dự án của tôi mà theo một dự án khác cũng về phát triển rau
sạch, khi dự án kia hết tài trợ nguyên liệu thì họ bơ vơ chẳng làm được và bắt
đầu nghĩ về sự tích cực lâu dài của dự án tôi làm… Tất cả những điều đó không
ngoài mục đích tập cho nông dân nghèo biết áp dụng khoa học kỹ thuật trong sản
xuất, thấy được giá trị khi tham gia sinh hoạt cộng đồng, cũng như cho họ bài học
để sau này phải biết quyết tâm theo đuổi lý tưởng trên cơ sở phân tích kỹ lưỡng,
quyết định đúng đắn nhất khi muốn làm một điều gì đó trong cuộc sống. Đó cũng
là những đặc điểm về cách làm việc của những người Nhật Bản chúng tôi” - chị
Mayu phân trần.
Trong khi chính phủ, cũng như một số tổ chức, doanh nghiệp tài trợ các
dự án của chị và cả họ hàng của Mayu tại Nhật Bản nữa, luôn dõi theo những bước
chân chị trên đất nước Việt Nam. Đặc biệt, hình ảnh của một số hoạt động nhân đạo
của chị tại Việt Nam được công chiếu trên kênh truyền hình Nhật Bản, trong một
chương trình của Bộ Ngoại giao, tháng 6 vừa qua, cũng như những hình ảnh về người
nghèo Việt Nam qua blog cá nhân hay mạng xã hội facebook của mình, hiện đã có rất
nhiều nhà hảo tâm và họ hàng của cô đã tình nguyện gửi quà, tiền để ủng hộ cho
những người nghèo. Đến nay, thông qua Hội Bảo trợ bệnh nhân nghèo, người tàn tật
và trẻ mồ côi tỉnh Bến Tre, cô đã góp hơn 100 triệu cho những mảnh đời bất hạnh.
“Cô May”, “chị May” - Mayu được người dân nghèo nông thôn gọi thân thiện
như thế từ nhiều năm qua. Cùng với khả năng lưu loát tiếng Việt, sống hòa đồng,
vui vẻ, tuy nhiên vẫn là sự mạnh mẽ trong suy nghĩ, dứt khoát trong cách làm đã
khiến nhiều người quen với phong cách làm việc của chị, nhiều người từ lâu đã
không còn khoảng cách về quốc gia, dân tộc với chị nữa.
“Năm 2019, sau khi hoàn thành dự án rau sạch ở Ba Tri, tôi sẽ về quê
hương. Trong khoảng thời gian này, tôi sẽ thực hiện thêm ý tưởng là tận dụng những
nguyên phế liệu trái cây sẵn có ở Bến Tre để chế tạo một sản phẩm hoàn hảo như
phụ nữ ở một số nước đã làm được. Tôi kỳ vọng chính quyền các địa phương mà tôi
đã gầy dựng mô hình, họ sẽ làm tiếp tục và nhân rộng ra. Được như vậy, từng mùa
hoa anh đào nơi xứ sở mới trọn vẹn trong tôi”.