Bà Nguyễn Thị Nhàn (thị trấn Mỏ Cày Nam) thắc mắc: Tôi và anh H. chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2006. Khi có nhà riêng, chúng tôi cùng đăng ký hộ khẩu thường trú và tôi đứng chủ hộ, chúng tôi không có đăng ký kết hôn. Năm 2008, tôi sinh con và khi làm khai sinh cho cháu khai mang họ tôi, phần họ tên cha để trống.
Trong quá trình chung sống, chúng tôi tạo được
một số tài sản có giá trị lớn gồm: nhà, xe máy, bàn ghế đắt giá… Khoảng tháng
10-2014, vợ chồng tôi phát sinh mâu thuẫn, anh H. đánh tôi nhiều lần nên tôi
cùng con tôi về sống với mẹ ruột tôi từ giữa năm 2015 đến nay. Tôi thấy không
thể hàn gắn tình cảm với anh H. nên muốn ly hôn.
Xin hỏi: Tôi với anh H. không đăng ký kết
hôn, nay có xin ly hôn được không? Tôi muốn nhận nuôi con, không yêu cầu anh H.
cấp dưỡng có được không? Phần tài sản trên phải chia như thế nào?
Thắc mắc của bà được luật sư Phạm Thị Kim Tuyến
(Đoàn Luật sư Bến Tre) tư vấn như sau: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 9, Luật
Hôn nhân và Gia đình (HNGĐ) năm 2014: “Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của luật này và pháp luật về
hộ tịch. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không
có giá trị pháp lý”. Đồng thời, theo quy định tại Điểm c, Khoản 3, Nghị quyết số
35/2000/QH10 ngày 9-6-2000 của Quốc hội hướng dẫn thi hành Luật HNGĐ năm 2000:
“Kể từ ngày 1-1-2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại Điểm a và Điểm b Khoản
3 của Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9-6-2000, nam và nữ chung sống với nhau
như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ
chồng”. Do chị và anh H. đã sống chung như vợ chồng từ năm 2006 nhưng không
đăng ký kết hôn, nên trường hợp này, không được pháp luật công nhận là vợ chồng.
Theo quy định tại Khoản 2, Điều 53 Luật HNGĐ
năm 2014: “Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì tòa
án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại Khoản
1, Điều 14; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết theo quy định tại
Điều 15 và Điều 16 Luật HNGĐ năm 2014”. Do đó, yêu cầu về con và tài sản sẽ được
tòa án giải quyết như đối với trường hợp ly hôn thông thường mà không có bất kỳ
hạn chế nào của trường hợp không công nhận là vợ chồng. Cụ thể:
+ Về quyền nuôi con: Chị và anh H. có thể thỏa
thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn
đối với con. Trường hợp không thỏa thuận được thì tòa án quyết định giao con
cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ
đủ 7 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con. Tòa án sẽ xem xét người
có các điều kiện như thu nhập hàng tháng, nơi sinh sống ổn định, có thời gian
chăm sóc tốt cho con... và xem xét nguyện vọng của cháu muốn ở với ai thì tòa sẽ
quyết định ai được quyền nuôi con. Chị có quyền không yêu cầu anh H. cấp dưỡng
nuôi con.
+ Về chia tài sản: Nếu là tài sản riêng, sẽ
được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu
của người đó. Nếu là tài sản chung, sẽ được chia theo thỏa thuận của các bên; nếu
không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết, tùy theo công sức đóng góp
của mỗi bên, trong đó ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con.
Chị cần làm đơn gửi đến tòa án nhân dân huyện
nơi chị và anh H. cư trú để được xem xét giải quyết.