BDK.VN - Ngày 15-5-2025, Quốc hội tiến hành điều chỉnh chương trình Kỳ họp lần thứ 9, Quốc hội khóa XV, theo đó, chiều cùng ngày, Quốc hội thảo luận tại Tổ về các nội dung: (1) Dự án Luật Tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc; (2) Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân; (3) Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt, tạo đột phá trong xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật. Tổ số 9 gồm Đoàn đại biểu Quốc hội các tỉnh Hòa Bình, Quảng Ninh, Tây Ninh và Bến Tre đã thảo luận khá sôi nổi các nội dung trên.
Đại biểu Nguyễn Trúc Sơn - Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bến Tre phát biểu tại phiên thảo luận tổ chiều 15-5-2025. Ảnh: Ái Thi
Tham gia thảo luận tại Tổ số 9, đại biểu Nguyễn Trúc Sơn - Phó chủ tịch Thường trực UBND tỉnh, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bến Tre rất quan tâm đến dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân vì nội dung này gắn liền với doanh nghiệp và có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia cũng như từng địa phương. Đây là Nghị quyết mà Quốc hội thể chế hóa Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4-5-2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.
Về các quan điểm và nguyên tắc phát triển kinh tế tư nhân đề ra trong dự thảo Nghị quyết, đại biểu thống nhất cao với các quan điểm đổi mới, những chính sách hướng đến doanh nghiệp và những vấn đề mấu chốt mà chúng ta đang tập trung giải quyết để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhiều chính sách đề ra khá cụ thể, nếu như được triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả thì sẽ tạo ra sự chuyển biến rất lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam nói chung và từng địa phương.
Để góp phần hoàn thiện nội dung Nghị quyết, đại biểu góp ý một số vấn đề sau:
Trước hết, theo đại biểu, cần đề cao nguyên tắc bình đẳng trong xây dựng và áp dụng chính sách đối với các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần. Các doanh nghiệp dù thuộc thành phần kinh tế nào, loại hình nào, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài... đều cần được đối xử bình đẳng trong môi trường đầu tư kinh doanh. Thời gian qua, đôi lúc chúng ta đã dành quá nhiều ưu đãi để thu hút, mời gọi các doanh nghiệp FDI, trong khi các doanh nghiệp trong nước chưa nhận được sự quan tâm tương xứng. Đại biểu cũng đề nghị Ban soạn thảo ngay từ đầu dự thảo Nghị quyết cần khẳng định vị trí chiến lược của kinh tế tư nhân, đặc biệt là vai trò động lực của các doanh nghiệp tư nhân; đồng thời, cần đề ra các chỉ tiêu quan trọng cho từng thời kỳ, như chỉ tiêu về phát triển doanh nghiệp tư nhân trong giai đoạn 2026 - 2030, tầm nhìn đến 2050; hay như chỉ tiêu phát triển 1.000 doanh nghiệp tiêu biểu, tiên phong, dẫn dắt (chỉ tiêu này được nêu tại Điều 15 gần cuối của dự thảo)... Các vấn đề này cần xác định ngay từ đầu để từ đó có thể xây dựng các chính sách hỗ trợ, thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân một cách toàn diện, đúng trọng tâm.
Về các chính sách cụ thể, đại biểu cơ bản thống nhất với các chính sách đã nêu trong dự thảo Nghị quyết. Tuy nhiên, qua nghiên cứu, đại biểu thấy rằng các chính sách còn mang tính “bề nổi”, chưa có nhiều chính sách mang tính chiến lược, một số chính sách còn khá dàn trãi, thiếu tính trọng tâm và chưa đủ sức để “khơi dậy” mạnh mẽ sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân. Từ thực tiễn công tác quản lý nhà nước ở địa phương, để có thể giúp phát triển kinh tế tư nhân thật sự, đại biểu kiến nghị một số vấn đề trọng tâm sau:
Thứ nhất, về công tác quy hoạch, tại Kỳ họp này, Quốc hội cũng đang xem xét sửa đổi Luật Quy hoạch. Theo đại biểu, các quy định của Luật Quy hoạch là hết sức cần thiết, tạo ra định hướng, vạch ra “lối đi” cho con đường phát triển của địa phương và đất nước. Tuy nhiên, về phía các doanh nghiệp, trong chiến lược đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh, họ có thể có nhãn quan khác với tầm nhìn của các nhà quản lý, hoạch định quy hoạch. Quan điểm của chúng ta hiện nay là những gì không có trong quy hoạch thì không được phép làm, phần nào đã làm hạn chế sự đổi mới, sáng tạo của các doanh nghiệp. Theo đại biểu, nếu doanh nghiệp có đề xuất các công trình, dự án khác với quy hoạch, thì trong từng giai đoạn, từng thời kỳ cụ thể, nhà quản lý cũng cần có sự cầu thị, nghiên cứu, đánh giá nếu thấy phù hợp, khả thi thì cũng tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện để phát triển.
Thứ hai, về đất đai, trong dự thảo Nghị quyết cũng đưa ra các chính sách về miễn, giảm tiền thuê đất; sử dụng ngân sách để giải phóng mặt bằng, hỗ trợ tái định cư. Thực tế có nhiều trường hợp doanh nghiệp có đất, nhưng khi đề xuất đầu tư mà đất lại không nằm trong quy hoạch hoặc không nằm trong danh mục các dự án do Nhà nước lựa chọn đầu tư thì doanh nghiệp cũng không thực hiện được. Đại biểu đề nghị nên có cơ chế mở, tháo gỡ khó khăn cho các trường hợp trên cũng như các trường hợp doanh nghiệp đầu tư các dự án theo những ngành, nghề đăng ký nhưng chưa nằm trong kế hoạch sử dụng đất mà thật sự có khả năng giúp phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Thứ ba, về chính sách tín dụng, theo đại biểu, năm 2022, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 43/2022/QH15 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có gói tín dụng ưu đãi lãi suất 2% với nguồn kinh phí từ ngân sách 40.000 tỷ đồng, tuy nhiên, kết quả giải ngân rất thấp. Dự thảo Nghị quyết lần này vẫn giữ mức hỗ trợ lãi suất 2% và gói gọn trong một phạm vi hẹp chỉ áp dụng đối với các dự án xanh, tuần hoàn và áp dụng khung tiêu chuẩn ESG. Đại biểu cho rằng với quy định như vậy, chúng ta sẽ lặp lại tình trạng có nhiều gói tín dụng mà doanh nghiệp lại không tiếp cận được do quy trình, thủ tục giải ngân phức tạp. Đại biểu đề nghị nên có cách tiếp cận khác, tăng cường cho doanh nghiệp vay tín chấp để giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn được dễ dàng hơn khi nắm bắt được cơ hội đầu tư. Hiện tại, vay thế chấp thì chủ yếu tài sản thế chấp là bất động sản, nhưng quá trình định giá khó khăn, kết quả định giá thấp, nhiều Ngân hàng cũng không nhận thế chấp đất nông nghiệp. Đại biểu đề nghị nên cho phép tiếp cận tín dụng theo mức độ tín nhiệm của doanh nghiệp và đề xuất Ngân hàng Nhà nước chủ trì xây dựng hệ thống đánh giá mức độ tín nhiệm của doanh nghiệp hoặc cho vay trong quá trình doanh nghiệp hình thành tài sản có trong tương lai, mở rộng tín chấp khi cơ hội đầu tư được đánh giá là khả thi.
Thứ tư, về nguyên tắc xử lý các vi phạm và giải quyết các vụ việc trong hoạt động kinh doanh, Đại biểu đồng tình với quy định này, thể chế hóa quan điểm của Nghị quyết số 68-NQ/TW nhưng đề nghị cần quy định cụ thể hơn. Theo đại biểu, đối với các hành vi vi phạm pháp luật rõ ràng như lừa đảo, sản xuất kinh doanh hàng gian, hàng giả…thì đương nhiên phải bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật hình sự. Tuy nhiên, đối với các trường hợp trong quá trình triển khai thực hiện dự án, doanh nghiệp gặp những sự cố rủi ro ngoài ý muốn, thì cần tạo điều kiện cho doanh nghiệp khắc phục bằng các giải pháp phù hợp, tránh “hình sự hóa”.
Thứ năm, về hoạt động thanh tra, kiểm tra, đại biểu hoan nghênh tinh thần đổi mới trong hoạt động thanh tra, kiểm tra như dự thảo Nghị quyết, tuy nhiên, đề nghị cần phải quy định chặt chẽ hơn vì một doanh nghiệp có thể đăng ký kinh doanh nhiều lĩnh vực khác nhau, nếu quy định như dự thảo thì khó cho cơ quan thanh tra, kiểm tra trong triển khai thực hiện. Bên cạnh công tác thanh tra, kiểm tra, đại biểu đề nghị cần tăng cường công tác giám sát hoạt động của doanh nghiệp thông qua các báo cáo, dữ liệu điện tử…
Thứ sáu, vấn đề hóa đơn điện tử và hoàn thuế VAT cho doanh nghiệp, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hoặc có các hoạt động kinh doanh được hoàn thuế VAT hiện nay vẫn còn gặp khó khăn do chậm được hoàn thuế, trong khi khoản hoàn thuế này khá lớn đối với nhiều doanh nghiệp, doanh nghiệp rất trông chờ được hoàn thuế để tái đầu tư. Đại biểu đề nghị trong dự thảo Nghị quyết cần quy định rõ các vấn đề này, đảm bảo việc hoàn thuế cho doanh nghiệp được thực hiện đúng, đủ, kịp thời, công khai, minh bạch, xử lý nghiêm các hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực trong việc hoàn thuế.
Thứ bảy, về thủ tục hành chính, Quốc hội giao cho Chính phủ: “Trong năm 2025 hoàn thành việc rà soát, loại bỏ những điều kiện kinh doanh không cần thiết, quy định chồng chéo, không phù hợp, cản trở sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân; thực hiện giảm ít nhất 30% thời gian xử lý thủ tục hành chính, ít nhất 30% chi phí tuân thủ pháp luật, ít nhất 30% điều kiện kinh doanh và tiếp tục cắt giảm mạnh trong những năm tiếp theo”. Đại biểu tán thành quy định này, trên thực tế, đại biểu nhận thấy có một số thủ tục gây phiền hà cho doanh nghiệp nhưng mục đích, yêu cầu quản lý lại chưa rõ ràng, khó đạt được. Đại biểu kiến nghị cần phải có sự tích hợp, “xâu chuỗi” lại các quy định của pháp luật có liên quan, đưa vào trong Nghị quyết này, cắt giảm bớt các thủ tục làm chậm tiến độ đầu tư, để có thể khơi thông tiến độ, giúp dự án được triển khai nhanh và có thể quản lý được chặt chẽ hơn.
Thứ tám, về việc đăng tải, công bố, công khai các thông tin của doanh nghiệp trên báo chí, theo đại biểu, doanh nghiệp hiện nay sợ nhất là việc báo chí, mạng xã hội đăng tải, lan truyền các thông tin liên quan đến doanh nghiệp chưa được kiểm chứng, chưa rõ ràng, đang trong quá trình kiểm tra, thanh tra chưa có kết luận chính thức... đã làm ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến uy tín và hoạt động của doanh nghiệp. Đại biểu đề nghị cần có giải pháp quản lý chặt chẽ việc đưa thông tin của doanh nghiệp lên báo chí, mạng xã hội đúng theo quy định của pháp luật về báo chí và xử lý nghiêm các hành vi đưa tin không đúng sự thật.
Thứ chín, về cho thuê đất, theo quy định của Luật Đất đai năm 2024, các doanh nghiệp muốn đầu tư vào khu công nghiệp cũng phải đấu giá quyền thuê đất, rất khó khăn. Đại biểu đề xuất, nếu doanh nghiệp đăng ký vào khu công nghiệp mà hạ tầng do Nhà nước hoặc tư nhân đầu tư, nếu dự án đúng lĩnh vực đang mời gọi đầu tư thì khỏi phải đấu giá quyền thuê đất. Ngoài ra, các dự án đúng với quy hoạch thì cũng không cần phải đấu giá quyền thuê đất nếu chỉ có 1 nhà đầu tư quan tâm, chỉ đấu giá khi có từ 2 nhà đầu tư trở lên.
Thứ mười, cần có chính sách hạn chế xuất khẩu thô nguyên liệu, nhất là các mặt hàng nông thủy sản mà Việt Nam đang có lợi thế, để tránh tình trạng khan hiếm nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến trong nước. Cùng hoạt động sản xuất kinh doanh trên một lĩnh vực nhưng có doanh nghiệp chế biến rồi mới xuất khẩu, có doanh nghiệp xuất khẩu thô, khi nguyên liệu khan hiếm thì sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp rất gay gắt, các doanh nghiệp xuất khẩu thô lại không bị đánh thuế. Nhiều quốc gia trong khu vực áp dụng chính sách hạn chế xuất khẩu thô, như trái dừa hiện nay chẳng hạn, các nước như Indonesia, Philippines nếu xuất khẩu thô sẽ phải bị đánh thuế, còn chế biến trong nước được miễn thuế nhằm khuyến khích chế biến sâu các sản phẩm từ nguyên liệu trong nước, gia tăng giá trị sản phẩm, phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo, tạo việc làm. Việt Nam hiện nay xuất khẩu trong nông nghiệp chiếm tỷ trọng rất lớn, do đó, theo đại biểu, cần có chính sách rõ ràng giữa chế biến và xuất khẩu thô nguyên liệu, đặc biệt là có chính sách khuyến khích để doanh nghiệp tham gia vào chuỗi sản phẩm toàn cầu.
Điểm cuối cùng, theo Điều 14 dự thảo Nghị quyết quy định về đặt hàng, đấu thầu hạn chế, chỉ định thầu thực hiện dự án trọng điểm, quan trọng quốc gia, đại biểu cho rằng đây là quy định rất tiến bộ. Tuy nhiên, về ưu đãi lựa chọn nhà thầu, Điều 11 dự thảo Nghị quyết quy định:“Gói thầu sử dụng ngân sách nhà nước có giá không quá 20 tỷ đồng được dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong đó ưu tiên doanh nghiệp do thanh niên, phụ nữ, đồng bào dân tộc thiểu số, người khuyết tật làm chủ, doanh nghiệp ở miền núi, biên giới, hải đảo”. Đại biểu cho rằng quy định này rất nhân văn, nhưng cũng cần làm rõ tiêu chí, lĩnh vực áp dụng, vì cần phải đảm bảo chặt chẽ về tiến độ, chất lượng, yêu cầu kỹ thuật đối với các công trình, dự án đầu tư công.
Riêng việc phát triển hộ kinh doanh cá thể lên doanh nghiệp, đại biểu cho rằng nếu chỉ tuyên truyền, vận động mà chưa có chính sách, ưu đãi rõ thì hộ sẽ không muốn chuyển đổi thành doanh nghiệp. Vì vậy, cần phải điều chỉnh chính sách, phân định lại loại hình hộ, cá nhân kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp cho cụ thể hơn.