Nuôi con nuôi thực tế (NCNTT) là việc nuôi con nuôi đã phát sinh trên thực tế giữa công dân Việt Nam với nhau, nhưng chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước ngày 1-1-2011.
Theo quy định tại Điều 14, Điều 50 Luật Nuôi
con nuôi, Điều 23 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP hướng dẫn Luật Nuôi con nuôi năm
2010, quy định về đăng ký việc nuôi con nuôi như sau: Việc nuôi con nuôi đã
phát sinh trên thực tế giữa công dân Việt Nam với nhau mà chưa đăng ký trước
ngày 1-1-2011 (được coi là NCNTT) thì được đăng ký kể từ ngày 1-1-2011 đến hết
ngày 31-12-2015 tại UBND cấp xã, nơi thường trú của cha mẹ nuôi và con nuôi, nếu
đáp ứng các điều kiện sau: có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; hơn con nuôi từ
20 tuổi trở lên; có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; có tư cách đạo đức tốt, không thuộc trường
hợp không được nhận con nuôi; quan hệ cha, mẹ và con vẫn đang tồn tại và cả hai
bên còn sống; giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục nhau như cha mẹ và con.
Quy định trên cũng được áp dụng đối với trường
hợp công dân Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới nhận trẻ em của nước láng
giềng cư trú ở khu vực biên giới của nước láng giềng làm con nuôi trước ngày
1-1-2011 mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Không đăng ký nuôi con nuôi thực tế, coi chừng
bị thiệt
Tại Bến Tre, thực hiện theo Quyết định số
1985 ngày 13-7-2012 của Bộ Tư pháp, ngày 28-8-2012, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch
số 3941, triển khai đăng ký NCNTT theo quy định của Luật Nuôi con nuôi trên địa
bàn tỉnh. Theo kế hoạch, đã phân công cụ thể đối với từng đơn vị, địa phương
(trong đó, Sở Tư pháp là cơ quan chủ động).
Đến nay (ngày 24-9-2015), theo thống kê của
ngành Tư pháp, toàn tỉnh có 109 trường hợp NCNTT; trong đó, đã đăng ký 46 trường
hợp, còn 63 trường hợp chưa đăng ký. Ông Lê Minh Hiền - Phó Giám đốc Sở Tư
pháp cho biết: “Để công tác đăng ký NCNTT trên địa bàn tỉnh đạt kết quả cao,
Sở đã ban hành nhiều văn bản đôn đốc Phòng Tư pháp các huyện, thành phố tham
mưu UBND cùng cấp tích cực thực hiện Kế hoạch số 3941 của UBND tỉnh. Đồng thời,
Sở cũng lồng ghép nội dung kiểm tra việc triển khai thực hiện kế hoạch của UBND
tỉnh về đăng ký NCNTT trong kế hoạch kiểm tra công tác tư pháp hàng năm đối với
Phòng Tư pháp và UBND cấp xã”.
Trên thực tế, nguyên nhân của việc chưa đăng
ký NCNTT bởi các lý do sau: một số trường hợp có đủ điều kiện đăng ký nhưng họ
không đăng ký (dù đã được giải thích, động viên nhiều lần), do họ muốn giữ bí mật,
sợ ảnh hưởng đến tình cảm gia đình; một số trường hợp không có đủ giấy tờ; quan
hệ nuôi con nuôi phát sinh đã lâu, cùng chung một hộ khẩu nên người dân không
đi đăng ký (trong hộ khẩu đã ghi quan hệ là cha, mẹ, con); không liên lạc được
với cha, mẹ nuôi (do đã chuyển đi nơi khác).
Việc NCNTT nhưng không đăng ký sẽ là quan hệ
bình thường nếu như không có tranh chấp về tài sản (thông thường là tranh chấp
về quyền thừa kế). Trong trường hợp xảy ra tranh chấp, người nhận con nuôi
(cha, mẹ) hoặc người con nuôi đều bị thua thiệt; đến lúc này thì việc giải quyết
tranh chấp phải nhờ đến sự can thiệp của cơ quan pháp luật và căn cứ quan trọng
để xác định quan hệ của họ là việc đăng ký NCNTT.
Hồ sơ đăng ký việc nuôi con nuôi thực tế:
1- Người nhận con nuôi phải
làm tờ khai đăng ký NCNTT và nộp cho UBND cấp xã, nơi người đó thường trú.
Trong tờ khai, cần ghi rõ ngày, tháng, năm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi
trên thực tế, có chữ ký của ít nhất hai người làm chứng.
2- Kèm theo tờ khai, phải
có các giấy tờ sau đây: Bản sao giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu của
người nhận con nuôi. Bản sao giấy chứng minh nhân dân hoặc giấy khai sinh của
người được nhận làm con nuôi. Bản sao giấy chứng nhận kết hôn của người nhận
con nuôi (nếu có). Giấy tờ, tài liệu khác để chứng minh về việc nuôi con nuôi
(nếu có).
(Điều 25, Nghị định số
19/2011/NĐ-CP ngày 21-3-2011 của Chính phủ, quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Nuôi con nuôi).
|