Những người nông dân sản xuất vũ khí

09/01/2013 - 07:52

Nhắc đến truyền thống oai hùng của Thạnh Phú Đông (Giồng Trôm), nhiều người lại nhớ đến Tổ sản xuất vũ khí. Những người nông dân tay lấm chân bùn nhưng quả cảm, sáng tạo, mưu trí đã khiến giặc nhiều phen khiếp sợ.

Tổ sản xuất có 5 thành viên, đó là: đồng chí Ba Hồng - thợ mộc, làm tổ trưởng; Phan Văn Năm (Năm Thắng); Đố Tấn A (Huỳnh Trung); Trương Văn Cưu (Năm Cưu) và đồng chí Lòi. Hiện nay, cả tổ chỉ còn đồng chí Năm Cưu.

Sau Đồng Khởi 1960, giặc càn quét, đánh phá ác liệt hòng tiêu diệt lực lượng của ta. Trước tình hình này, Chi bộ chỉ đạo làm xã chiến đấu, hàng rào gài chông, vũ khí tự tạo để đánh giặc, giữ làng. Tổ sản xuất vũ khí để phục vụ cho du kích đánh giặc ra đời từ đó. Chi bộ cử đồng chí Năm Thắng, là đoàn viên, trẻ tuổi, dũng cảm về huyện tập huấn sản xuất vũ khí thô sơ. Đồng chí Thắng là con nhà nòi (là con ông Phan Văn Kích, cháu của ông Phan Văn Phải, bộ đội vang danh của Thạnh Phú Đông). Sau một tháng, đồng chí Thắng trở về, cùng các đồng chí của mình bắt tay vào nhiệm vụ được phân công.

Điểm đầu tiên được đặt làm nơi sản xuất là trong vườn chuối của ông Cao Văn Trắc. Tổ ăn ở tại nhà ông Huỳnh Văn Gia gần bên, thuộc xóm Đồng Năn (ấp Hưng Phú). Tổ chế tạo lựu đạn chai, súng ngựa trời, mã tấu… Các anh, các chú mua ống bể về thụt, giống như lò rèn chuyên nghiệp; mua sắt, ống tuýp làm họng súng ngựa trời. Vốn là thợ mộc, đồng chí Ba Hồng chặt cây quao về làm báng súng. Các đồng chí tận dụng chai nước tương, lon cá mòi… để tạo ra vũ khí có sức sát thương cao. Quần chúng thấy tổ sản xuất giỏi nên cũng nghĩ ra cách để góp sức vào. Đi đâu, làm gì, bà con cũng đều để ý, phát hiện có bom pháo do địch bắn lép là báo ngay cho tổ để các anh đi đào, tái chế. Các cụ cao tuổi ở Thạnh Phú Đông vẫn còn nhớ nhiều giai thoại vui về việc này. Tất cả sự cố gắng đã được đền đáp, vũ khí được chế tạo thành công. Tổ cung cấp vũ khí cho du kích đánh giặc. Cứ mỗi lần giặc càn vào làng đều bị trái gài của du kích đánh gây sát thương, những lần sau không dám lùng sục.

Năm 1963, dấu mốc đánh dấu sự phát triển của việc sản xuất vũ khí: ra đời Tổ sản xuất vũ khí liên xã, gồm ba xã: Thạnh Phú Đông, Phước Long, Long Mỹ. Mỗi xã cử người về Phước Long tham gia tổ chế tạo, để sản xuất vũ khí cho địa phương mình đánh giặc. Cách làm này tạo điều kiện cho anh em vừa trao đổi chuyên môn, kinh nghiệm, vừa sản xuất, phát triển được nhiều vũ khí hơn.

Hơn một năm sau, giặc “đánh hơi” biết được, cho bom pháo đánh quyết liệt nhằm diệt trại sản xuất. Vì vậy, đến năm 1965, tổ lại phân tán, người của xã nào trở về xã đó, tiếp tục bám địa bàn sản xuất vũ khí. Đỗ Tấn A bị giặc bắt. Chúng dùng lưỡi lê đâm nát bắp vế anh, hòng khai thác, nhưng không thu được gì ở anh đành bỏ đi. Người dân địa phương đã cứu anh an toàn. Sau đó, tùy tình hình thực tế mà tổ tập trung hay phân tán lực lượng, di chuyển đóng ở một số nơi trong xã, được bà con che chở, nuôi dưỡng. Tổ  sản xuất ngày càng có nhiều kinh nghiệm. Đỗ Tấn A sáng chế ra nhiều loại mìn có sức công phá mạnh, diệt nhiều địch. Anh được phân công phụ trách kỹ thuật.

Ngoài việc chế tạo mìn, lựu đàn cá mòi, tổ còn đi thu gom những quả bom lép, về cưa lấy thuốc nổ vừa sản xuất, cung cấp cho du kích xã vừa cung cấp cho đơn vị bạn. Cưa bom lép không kém phần nguy hiểm. Nhưng, để có vũ khí đánh giặc, các anh đã vượt qua tất cả. Mỗi lúc cưa bom, những người không có nhiệm vụ phải tránh đi nơi khác để đảm bảo an toàn. Trong quá trình công tác, hầu như thành viên nào của tổ cũng bị thương ở tay. Năm 1969, tổ chế tạo thành công lựu đạn lá lúa (hay còn gọi là mìn cá chạch). Trái đạn này có một lá nhọn, mỏng như lá lúa, để lẫn vào cỏ rất khó phát hiện. Nếu giặc chạm phải thì “lá lúa” nổ, phá hủy chân.

Có vũ khí rồi, đội du kích Thạnh Phú Đông thực hiện nhiều trận đánh làm giặc thất kinh bát đảo. Với lối đánh du kích, các anh, các chú thường đưa giặc vào thế bất ngờ, bị động, từng bước tiêu diệt sinh lực địch. Điển hình là trận đánh ở ấp Hưng An, do đồng chí Trương Văn Rắc làm tổ trưởng. Lúc 7 giờ ngày 2-7-1969, tiểu đoàn 1 và 3, trung đoàn 10, sư đoàn 7 mở cuộc càn quét vào Thạnh Phú Đông. Lực lượng du kích bám sát theo dõi địch. Cách cầu Thôn Thường 250m, hướng ấp 2, tổ du kích gài nhiều loại mìn tạo thành bãi trái. Dự đoán khi trái nổ, địch cảnh giác, nên du kích gài 1 trái 105 ly lép nửa kín nửa hở để nghi trang, dụ địch dừng quân chờ cắt dây, gỡ trái. Lựu đạn lá lúa, cá mòi… “nằm” trên bờ, ven ruộng chờ giặc. Trái nổ, địch hốt hoảng chạy dồn vào khoảng đất trống gần đó để gọi máy bay ứng cứu. Tại đây, du kích đã gài sẵn trái 106 ly7 - trái đạn pháo của địch bắn vào làng bị lép, tổ sản xuất vũ khí đã thay kíp nổ, gài lại đánh giặc.

Đúng như du kích đã dự định. Con đường hành quân của giặc cũng là đi vào con đường chết. Vũ khí tuy thô sơ nhưng du kích Thạnh Phú Đông đã dạy cho giặc một bài học về sự mưu trí, sáng tạo của người dân yêu nước. Ta thắng to, diệt 35 tên, nhiều tên bị thương, 45 cái nón sắt quân trang, quân dụng của giặc la liệt tại trận địa. Đội du kích và những cá nhân ở Thạnh Phú Đông được tuyên dương anh hùng có sự đóng góp không nhỏ của Tổ sản xuất vũ khí. Đến ngày đại thắng mùa xuân năm 1975, Tổ đã hoàn thành sứ mạng lịch sử của mình.

Đi qua cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước, Giồng Trôm được mệnh danh là đất thép. Nơi ấy, có những con người kiên trung, bất khuất; giặc Mỹ đã dội hàng vạn tấn bom đạn lên vùng đất hiền hòa ấy. Song, ý chí con người đã vượt lên tất cả. Bây giờ, màu xanh của no ấm, của trù phú đã trở về, phủ đầy miền đất anh hùng, từ Lương Hòa, Lương Phú đến Thạnh Phú Đông, Long Mỹ…

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN