Nhu cầu nước ngọt tại tỉnh, bài 2

Nỗ lực đảm bảo nguồn nước cho sinh hoạt, sản xuất

15/05/2024 - 05:21

BDK - Bên cạnh việc vận động nhân dân chủ động trữ nước mưa và nước ngọt để sử dụng cho sinh hoạt và sản xuất, tỉnh đã có nhiều nỗ lực nhằm bảo đảm nguồn nước ngọt phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Đồng thời, tỉnh tiếp tục đầu tư, nâng cấp, phát triển hệ thống cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn.

Người dân huyện Mỏ Cày Nam trang bị nhiều dụng cụ chứa nước để ứng phó với mùa khô hàng năm.

Người dân huyện Mỏ Cày Nam trang bị nhiều dụng cụ chứa nước để ứng phó với mùa khô hàng năm.

Nước ngọt phục vụ sản xuất

Thời gian qua, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo về công tác phòng chống hạn mặn, bảo đảm nguồn nước ngọt phục vụ sinh hoạt và sản xuất. UBND tỉnh chủ động xây dựng kế hoạch ứng phó trong điều kiện xảy ra xâm nhập mặn với từng kịch bản khác nhau, sẵn sàng các giải pháp cấp nước khi xâm nhập mặn diễn ra.

Trong 3 năm trở lại đây, tỉnh đã hoàn thành thi công lắp đặt 30,6km đường ống cấp nước thuộc công trình “Kết nối mạng lưới cấp nước các nhà máy nước ứng phó hạn mặn năm 2021” để phân bổ, cấp nước từ nơi có độ mặn thấp đến độ mặn cao. Hoàn tất các điểm chờ, sẵn sàng kết nối tuyến ống nước từ dự án “Cấp nước sinh hoạt cho khu dân cư Cù Lao Minh trong điều kiện biến đổi khí hậu và nước biển dâng”, cấp nước ngọt cho sinh hoạt khi dự án hoàn thành. Thực hiện công tác tiếp nhận, quản lý, bảo trì, bảo dưỡng các hệ thống lọc mặn RO để sẵn sàng đưa vào sử dụng. Phối hợp với Trung tâm Quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn lập báo cáo nghiên cứu khả thi dự án “Công trình trữ nước và hệ thống cung cấp nước sinh hoạt tại các vùng khan hiếm nước, vùng bị ảnh hưởng xâm nhập mặn” trên địa bàn tỉnh. Đến nay, đã phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi dự án. Trung tâm đang triển khai thực hiện dự án thành phần số 1 các công trình cấp nước tập trung nông thôn tỉnh. Đồng thời, thực hiện đầu tư các công trình thủy lợi nội đồng để ngăn mặn, trữ ngọt. Nâng cấp, sửa chữa đê bao tạm, nạo vét kênh mương, khơi thông dòng chảy, tăng cường khả năng chứa nước. Hệ thống thủy lợi vận hành đúng quy trình, phù hợp, hiệu quả, bảo đảm yêu cầu ngăn mặn, trữ ngọt, bảo vệ, phòng chống ô nhiễm, suy thoái tài nguyên nước.

Bên cạnh đó, việc bảo đảm nguồn nước ngọt phục vụ sản xuất và sinh hoạt còn có các dự án, đầu việc như: Dự án xây dựng đê bao ngăn mặn kết hợp đường giao thông nối liền các huyện biển Bình Đại - Ba Tri - Thạnh Phú đã hoàn thành giai đoạn 1 và đang triển khai giai đoạn 2, ước đạt 80%. Hoàn thành đánh giá hiện trạng và đề xuất nhiệm vụ quản lý hồ chứa nước ngọt sông Ba Lai trong điều kiện biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Ban hành kế hoạch hành động bảo tồn đa dạng sinh học tỉnh đến năm 2030.

Phát triển hệ thống cấp nước sạch

Theo kết quả điều tra, đánh giá, nguồn tài nguyên nước dưới đất của tỉnh có đặc điểm địa chất thủy văn phức tạp, có trữ lượng tương đối ít, phần lớn là nước mặn, nước nhiễm phèn. Hiện nay, mực nước dưới đất trong các tầng chứa nước ở tỉnh nói riêng và vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung đang bị hạ thấp, chất lượng nước dưới đất hiện đã có dấu hiệu ô nhiễm, suy thoái không đảm bảo cho sinh hoạt. Do đó, nước mặt là nguồn tài nguyên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với đời sống và sản xuất của tỉnh; là nguồn cung cấp cho các nhà máy nước phục vụ cấp nước sinh hoạt. Tuy nhiên, nguồn nước mặt trên các sông kênh, rạch trong tỉnh hiện nay đang bị ô nhiễm bởi chất hữu cơ, vi sinh, chất rắn lơ lửng, kim loại và có chiều hướng ngày càng gia tăng. Để nâng cao chất lượng cấp nước và tỷ lệ sử dụng nước sạch, tỉnh đã có nhiều nỗ lực trong công tác cấp nước sạch, nhất là khu vực nông thôn.

Hiện tỉnh đã hoàn thành nâng công suất 6 nhà máy nước trên địa bàn các huyện: Mỏ Cày Nam, Thạnh Phú, Mỏ Cày Bắc, Bình Đại, Châu Thành, với tổng công suất nâng cấp đạt 420m3/giờ, bảo đảm cung cấp nước cho khoảng 44.100 hộ dân. Triển khai thực hiện các công trình cải tạo, nâng cấp, sửa chữa các tuyến ống cấp nước để bảo đảm số lượng và chất lượng nguồn nước cung cấp cho người dân. Thực hiện đấu nối cung cấp nước vượt kế hoạch đề ra, góp phần nâng cao tỷ lệ người dân sử dụng nước sạch trên địa bàn tỉnh. Ngoài ra, hiện có 1 dự án cấp nước đã đi vào hoạt động và 1 dự án đang trong giai đoạn triển khai thực hiện, với tổng công suất dự kiến khoảng 22.200m3/ngày đêm. Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh chủ động cải tiến công nghệ xử lý nước từ công nghệ lắng nghiêng, lắng đứng, lắng ngang dần sang công nghệ lắng lamen với hiệu suất lắng đạt trên 95%; thay thế công nghệ lọc áp lực bằng công nghệ lọc trọng lực/trọng lực tự rửa. Qua đó, chất lượng nước vừa đáp ứng quy chuẩn hiện hành vừa bảo đảm hoạt động cấp nước an toàn, hiệu quả, bền vững hơn.

Song, trong tình hình biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn diễn biến ngày càng phức tạp, gay gắt, hệ thống thủy lợi trên địa bàn tỉnh chưa khép kín gây khó khăn cho việc cung cấp nguồn nước thô bảo đảm chất lượng và số lượng, nhất là trong mùa khô. Đa phần các nhà máy cấp nước có phạm vi phục vụ tương đối nhỏ và khai thác nguồn mặt tại chỗ trong phạm vi phục vụ nên chất lượng nước còn thấp, không đồng đều. Khi xảy ra xâm nhập mặn thì bị động về nguồn nước thô, nước sau xử lý cũng bị nhiễm mặn. Bên cạnh đó, dự án đầu tư xây dựng hệ thống thu gom và xử lý nước thải sinh hoạt đô thị tập trung cho TP. Bến Tre và các đô thị chưa được đầu tư là những hạn chế cần được xem xét, giải quyết trong thời gian tới.

Đến nay, tỉnh đã phê duyệt kế hoạch cấp nước an toàn cho 5 đơn vị. Mục tiêu đến năm 2025 đạt 50% nhà máy nước nông thôn lập và thực hiện kế hoạch cấp nước an toàn theo Quyết định số 1566/QĐ-TTg ngày 9-8-2016 của Thủ tướng Chính phủ. Năm 2022, tỷ lệ thất thoát nước sạch bình quân của Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh là 21,5%; Công ty cổ phần Cấp thoát nước Bến Tre 25,27%. Năm 2023, tỷ lệ thất thoát nước sạch bình quân của Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh ước khoảng 21,5%; Công ty cổ phần Cấp thoát nước Bến Tre ước khoảng 23,5%.

Bài, ảnh: Thạch Thảo

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN