BDK.VN - Chiều ngày 22-1-2022, đồng chí Vương Đình Huệ - Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam cùng Đoàn công tác Quốc hội đã có buổi làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Đồng chí Lê Đức Thọ - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy đã có bài phát biểu quan trọng, xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu.
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Lê Đức Thọ phát biểu tại buổi làm việc.
Ảnh: Trọng Ân
Kính thưa:
- Đồng chí Vương Đình Huệ, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam;
- Các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, các đồng chí lãnh đạo các cơ quan của Quốc hội, các ban, bộ, ngành Trung ương;
- Các đồng chí thành viên Đoàn công tác của Chủ tịch Quốc hội;
- Các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy và các đồng chí dự họp.
Tỉnh Bến Tre rất vui mừng và phấn khởi được đón tiếp đồng chí Vương Đình Huệ - Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội; các đồng chí thành viên Đoàn công tác của Chủ tịch Quốc hội về thăm và làm việc với tỉnh. Đây là niềm vinh dự lớn đối với tỉnh Bến Tre, là động lực để tỉnh tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới.
Kính thưa đồng chí Chủ tịch Quốc hội và các đồng chí!
Bến Tre là một trong 13 tỉnh, thành phố của vùng đồng bằng sông Cửu Long, có nhiều cơ hội phát triển tốt, nhưng tỉnh cũng còn nhiều khó khăn, đặc biệt là về hệ thống giao thông, chịu tác động mạnh, trực tiếp, rõ nét của biến đổi khí hậu. Bến Tre có vị trí địa lý tương đối thuận lợi, giáp vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam, cách TP. Hồ Chí Minh 86km, có điều kiện phát triển giao thông đường bộ, đường thủy và đường biển nối liền với các vùng kinh tế. Phía Đông của tỉnh giáp Biển Đông và có chiều dài đường biển khoảng 65 km, thuận lợi phát triển kinh tế biển. Đồng thời, với lợi thế về cảnh quan thiên nhiên, kinh tế miệt vườn, cây dừa, cây ăn trái, sản xuất hoa kiểng, cây giống, truyền thống cách mạng anh hùng, lịch sử văn hóa, các di tích và lễ hội lớn, do đó có lợi thế để phát triển.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020-2025 đã đề ra phương châm “Dân chủ - Kỷ cương - Đồng thuận - Sáng tạo - Phát triển”; đặt mục tiêu phấn đấu xây dựng Bến Tre trở thành tỉnh phát triển khá của khu vực đồng bằng sông Cửu Long vào năm 2025 và của cả nước vào năm 2030; tốc độ tăng GRDP bình quân từ 8,5 - 9,5%/năm; GRDP bình quân đầu người phấn đấu đến năm 2025 đạt 87 triệu đồng. Để thực hiện đạt các mục tiêu, Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI thành 18 văn bản trên các lĩnh vực: xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị; phát triển kinh tế - xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh; phát triển nguồn nhân lực; chuyển đổi số,…; đồng thời, chỉ đạo các cấp, các ngành, địa phương, đơn vị triển khai xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện có kết quả. Tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ 5 nhiệm vụ trọng tâm, 3 nhiệm vụ đột phá và 11 công trình, dự án trọng điểm.
Năm 2021 là năm đầu tiên triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, trong điều kiện có nhiều khó khăn, ảnh hưởng của xâm nhập mặn những tháng đầu năm và tác động tiêu cực của dịch bệnh Covid-19. Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã bám sát thực tiễn, chủ động lãnh đạo, chỉ đạo linh hoạt, phù hợp và có kết quả; lãnh đạo, chỉ đạo cả hệ thống chính trị vào cuộc tập trung phòng, chống, đẩy lùi, kiểm soát dịch bệnh Covid-19; đồng thời, khẩn trương phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội. Với tinh thần “Đồng thuận - Sáng tạo”, sự nỗ lực của cấp ủy, chính quyền các cấp, cùng với sự tham gia tích cực của cộng đồng doanh nghiệp, toàn quân và nhân dân, tỉnh Bến Tre đã triển khai thực hiện Nghị quyết Tỉnh ủy năm 2021 đạt kết quả tốt. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị tiếp tục được chú trọng, thực hiện đạt và vượt 3/3 chỉ tiêu xây dựng Đảng. Trong năm 2021, toàn tỉnh kết nạp được 981/904 đảng viên mới, đạt 108,5%; công nhận 94/75 chi bộ ấp, khu phố trong sạch, vững mạnh toàn diện, đạt 125,3% so kế hoạch. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương “Tỉnh nắm tới xã; huyện nắm tới ấp, khu phố; xã nắm tới hộ gia đình”; hoạt động của HĐND tỉnh, Đoàn đại biểu Quốc hội đơn vị tỉnh Bến Tre phát huy kết quả tích cực; công tác dân vận của hệ thống chính trị và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng tiếp tục có nhiều đổi mới, phát huy tốt chức năng, vai trò; chú trọng cải cách thủ tục hành chính, tỉnh đã cung cấp 1.403 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và mức độ 4 đạt 80% tổng số thủ tục hành chính và đạt 100% đối với các thủ tục hành chính đủ điều kiện.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế tỉnh năm 2021 đạt 0,53% và đứng thứ 7 khu vực ĐBSCL; thu NSNN đạt trên 5.700 tỷ đồng, vượt 20,7% kế hoạch Trung ương giao, tăng 8,1% so năm 2020; giải ngân vốn đầu tư công đạt 92,5%; quan tâm, làm tốt công tác văn hóa, y tế, giáo dục, tạo công ăn việc làm, giải quyết tốt an sinh xã hội; tiến độ thực hiện các công trình dự án trọng điểm được tập trung thúc đẩy, nhất là dự án Cầu Rạch Miễu 2 đang chuẩn bị các điều kiện để có thể khởi công cuối trong quý I-2022; tổ chức thành công bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021 – 2026, kiện toàn, ổn định bộ máy nhân sự sau bầu cử.
Trong phòng, chống dịch bệnh Covid-19, tỉnh Bến Tre đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, biện pháp thiết thực đẩy lùi, kiểm soát dịch bệnh Covid-19 và đạt kết quả bước đầu tương đối tích cực, kiểm soát tốt tình hình. Đến nay về cơ bản tỉnh đã tiêm phòng vắc-xin cho người dân từ 18 tuổi trở lên và từ 12-18 tuổi, trong đó khoảng 50% người dân từ 18 tuổi trở lên đã tiêm mũi 3.
Chăm lo làm tốt công tác an sinh xã hội trên địa bàn, nhất là việc chi hỗ trợ cho người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do dịch bệnh Covid-19 (đến ngày 20-1-2022, toàn tỉnh đã rà soát, lập danh sách, chi hỗ trợ cho 241.837 trường hợp người sử dụng lao động, người lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 theo Nghị quyết số 68/NQ-CP của Chính phủ với số tiền trên 363,708 tỷ đồng). Các chế độ chính sách về tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động trong các doanh nghiệp được thực hiện tốt. Các chế độ, chính sách đối với người có công và đối tượng bảo trợ xã hội được thực hiện đầy đủ, kịp thời; đặc biệt, việc thăm hỏi, tặng quà cho các đối tượng gia đình chính sách, gia đình có công với nước, Mẹ Việt Nam anh hùng, gia đình khó khăn, neo đơn trong các dịp lễ, Tết được quan tâm thực hiện chu đáo.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã chỉ đạo các cấp, các ngành trong tỉnh chăm lo các công việc tổ chức đón năm mới 2022 và Tết Nguyên đán, đón Xuân Nhâm dần cho nhân dân bảo đảm vui tươi, lành mạnh, an toàn; tổ chức thăm, tặng quà tết cho các gia đình chính sách, gia đình có công với nước, Mẹ Việt Nam anh hùng, hộ nghèo, hộ cận nghèo, gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Tỉnh đã giao Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh làm đầu mối phối hợp với các cấp, các ngành chăm lo Tết cho Nhân dân; trong đó, hỗ trợ kịp thời, tặng quà Tết cho 40 ngàn hộ nghèo, hộ cận nghèo, gia đình chính sách khó khăn.
Tỉnh có nhiều đổi mới mạnh mẽ, thích ứng linh hoạt trong phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội với những giải pháp, biện pháp cụ thể, thiết thực, hiệu quả. Tập trung lãnh đạo đổi mới, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, cải cách thủ tục hành chính, nâng tỷ lệ sử dụng dịch vụ công trực tuyến cấp độ 3, 4; chú trọng, quan tâm, chủ động kết nối, đổi mới cách làm trong xúc tiến thương mại, đầu tư, du lịch, tham gia chuỗi giá trị. Vừa qua tỉnh cũng đã tổ chức ký kết 10 Bản ghi nhớ hợp tác toàn diện, chiến lược với các tập đoàn, doanh nghiệp lớn, hàng đầu của Việt Nam trong các lĩnh vực chuyển đổi số, hạ tầng giao thông, hạ tầng thủy lợi, đầu tư khu, cụm công nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao, năng lượng sạch, nước sạch, phát triển đô thị, thương mại dịch vụ, du lịch,…
Đại biểu tham dự buổi làm việc. Ảnh: Trọng Ân
Tỉnh đã quan tâm, đi vào thực chất, giới thiệu các cơ hội đầu tư của tỉnh, phù hợp với định hướng chiến lược, quy hoạch, khai thác tốt tiềm năng, lợi thế của tỉnh; Tỉnh cũng tăng cường kết nối, trao đổi học hỏi kinh nghiệm với các địa phương bạn và đổi mới mạnh mẽ thể chế, phù hợp yêu cầu thực tiễn.
Bên cạnh những kết quả quan trọng đạt được, tỉnh còn một số hạn chế nhất định: Việc cụ thể hoá thực hiện nghị quyết ở một số nơi chưa rõ và sát thực tế; chất lượng tổ chức triển khai quán triệt, học tập nghị quyết có lúc, có nơi chưa cao; công tác tuyên truyền có lúc còn hạn chế. Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội đạt thấp so kế hoạch, nhất là tăng trưởng kinh tế; chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới còn khá cao (đến cuối năm 2021, còn 17.060 hộ nghèo, tỷ lệ 4,26% và 16.996 hộ cận nghèo, tỷ lệ 4,24%). Một số công trình, dự án phải tạm ngưng thi công, chậm tiến độ; cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ phòng, chống và điều trị cho người nhiễm Covid-19 còn thiếu, nhất là trang thiết bị để điều trị cho các ca nặng.
Kính thưa đồng chí Chủ tịch Quốc hội và các đồng chí!
Năm 2022 là năm thứ hai triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp; trong điều kiện tỉnh có những thuận lợi, thời cơ phát triển, tuy nhiên còn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như: Tình hình biến đổi khí hậu, dịch bệnh Covid-19 còn diễn biến phức tạp, khó lường; tình hình sản xuất, kinh doanh, thị trường tiêu thụ của các doanh nghiệp còn gặp không ít khó khăn, năng lực cạnh tranh của một số doanh nghiệp còn hạn chế, thị trường tiêu thụ nông sản không ổn định; nguồn lực đầu tư của tỉnh và công tác giải phóng mặt bằng để tạo đất sạch thu hút đầu tư còn gặp nhiều khó khăn,... Tỉnh Bến Tre đã xây dựng Nghị quyết Tỉnh ủy năm 2022 với chủ đề trọng tâm là “Đồng thuận – Sáng tạo – Phát triển” gắn với phương châm “Chính quyền mạnh, trách nhiệm cao, sáng tạo, phục vụ nhân dân và đồng hành cùng doanh nghiệp”; Đảng bộ tỉnh xác định phải nỗ lực phấn đấu, quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện tốt kế hoạch thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát có hiệu quả dịch bệnh Covid-19, nỗ lực tập trung triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp đột phá để khẩn trương phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội với một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:
1. Xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực, hiệu lực hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị; đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; lan tỏa mạnh mẽ, sâu rộng, thực chất phong trào thi đua “Đồng Khởi mới”.
2. Thường xuyên củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy vững mạnh; xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp ngang tầm nhiệm vụ; sớm hoàn thiện, triển khai Đề án thí điểm tạo nguồn cán bộ giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030; thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, phát triển cán bộ.
3. Lãnh đạo làm tốt công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19, kiểm soát tốt và bền vững thành quả chống dịch, góp phần thực hiện tốt mục tiêu kép, bảo vệ sức khỏe và an toàn tính mạng cho người dân, vừa khẩn trương phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
4. Đẩy mạnh cải cách hành chính thực chất, rút ngắn thời gian giải quyết công việc; cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh, cải thiện các chỉ số PCI, PAPI, SIPAS, PAR INDEX gắn với nâng cao mức độ hài lòng trong cung cấp các dịnh vụ công cho người dân, doanh nghiệp; thực hiện đồng bộ các giải pháp tăng thu ngân sách Nhà nước, huy động tổng hợp các nguồn lực để đầu tư phát triển; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành nỗ lực thực hiện các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, từ 8 - 8,5%, trong chỉ đạo, điều hành nỗ lực đạt cao hơn.
5. Lãnh đạo tiếp tục triển khai thực hiện các chương trình/kế hoạch thực hiện các văn bản cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020-2025; đẩy nhanh tiến độ triển khai 11 công trình, dự án trọng điểm theo Nghị quyết Đại hội; thực hiện đồng bộ các giải pháp đẩy mạnh phát triển công nghiệp tạo thành khâu đột phá.
6. Quản lý, khai thác và sử dụng hiệu quả, bền vững tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường; Nâng cao năng lực dự báo, thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu; chủ động phòng, chống tác động tiêu cực của thiên tai, hạn mặn, dịch bệnh; bảo vệ môi trường.
7. Tập trung thực hiện quyết liệt, có hiệu quả chuyển đổi số; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học – công nghệ trong sản xuất kinh doanh, trong cuộc sống của người dân và trong quản lý, vận hành xã hội.
8. Tiếp tục quan tâm phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, y tế, giáo dục và đào tạo, đào tạo nghề, giới thiệu việc làm; thực hiện tốt chính sách đối với người có công; làm tốt công tác giảm nghèo; bảo đảm chính sách an sinh xã hội.
9. Củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; kết hợp chặt chẽ, hiệu quả nhiệm vụ quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế - xã hội.
10. Tiếp tục triển khai thực hiện tốt các Nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành, nhất là các Nghị quyết liên quan đến phục hồi, phát triển kinh tế, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp sau đại dịch để đạt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2022 và những năm tiếp theo.
Đại biểu tham dự buổi làm việc. Ảnh: Trọng Ân
Kính thưa đồng chí Chủ tịch Quốc hội và các đồng chí!
Để tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, thích ứng biến đổi khí hậu, phòng chống tác động tiêu cực của thiên tai, dịch bệnh, nâng cao mức sống của người dân, mở rộng không gian liên kết vùng, sớm đạt mục tiêu đưa Bến Tre trở thành tỉnh phát triển khá trong khu vực và cả nước, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bến Tre xin kiến nghị một số nội dung đến các cấp, các ngành để Chủ tịch Quốc hội xem xét chỉ đạo, giải quyết, cụ thể như sau:
1. Theo quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030 đang được hoàn chỉnh để trình Chính phủ phê duyệt và theo tinh thần Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17-11-2017 của Chính phủ về việc phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu; kính đề nghị Chủ tịch Quốc hội quan tâm chỉ đạo các bộ, ngành Trung ương sớm nghiên cứu cho phép ban hành một số cơ chế chính sách đặc thù để ĐBSCL phát triển nhanh, bền vững, xứng đáng với vai trò quan trọng của vùng ĐBSCL. Trong đó có cơ chế vay ODA phù hợp để các tỉnh ven biển ĐBSCL đầu tư tuyến giao thông đường bộ ven biển, tạo động lực phát triển và khai thác tốt hành lang kinh tế ven biển, góp phần thực hiện mục tiêu mở rộng và cơ cấu lại không gian phát triển, phát triển kinh tế biển, thích ứng biến đổi khí hậu, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Riêng Bến Tre, Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày 29-1-2021 về phát triển Bến Tre về hướng Đông giai đoạn 2021-2025 và tầm nhìn đến năm 2030 với các định hướng rất cụ thể, để tập trung đầu tư, khai thác và phát huy hiệu quả tiềm năng phát triển kinh tế biển, cải thiện hạ tầng kinh tế - kỹ thuật, logistic, tăng tính liên kết vùng, khu vực. Đề nghị Trung ương phê duyệt Quy hoạch phát triển tỉnh Bến Tre về hướng Đông, trong đó có quy hoạch lấn biển để vừa khai thác hiệu quả tiềm năng kinh tế biển, vừa phòng chống sạt lở, tạo quỹ đất và không gian phát triển mới cho địa phương; tỉnh Bến Tre đề nghị bổ sung Quy hoạch Điện VIII 5000MW điện gió cho tỉnh Bến Tre (đã có văn bản gửi Bộ Công Thương).
2. Trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội về chính sách tài chính, tiền tệ hỗ trợ triển khai Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội vừa được Quốc hội thông qua, kiến nghị các Bộ, ban, ngành Trung ương xem xét hỗ trợ tỉnh triển khai một số dự án từ chương trình này trong các lĩnh vực y tế, hạ tầng giao thông, thủy lợi, phát triển kinh tế nông nghiệp, cụ thể như sau:
- Đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư xem xét, hỗ trợ đầu tư: Dự án xây dựng cầu Ba Lai trên tuyến đường Bắc Nam phục vụ KCN Phú Thuận, Cụm công nghiệp Phong Nẫm và kết nối hạ tầng vùng nguyên liệu sản xuất nông nghiệp (ĐT.DK.08), liên huyện Bình Đại - Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre; Dự án nâng cấp, mở rộng các tuyến đường huyện 34, 35 và 37 phục vụ phát triển Làng Văn hóa du lịch Chợ Lách, tỉnh Bến Tre; Dự án nâng cấp, gia cố chống sạt lở đê bao cồn Tam Hiệp, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre; một số dự án đầu tư nâng cấp, mở rộng, phát triển hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy, cảng biển.
- Đề nghị Bộ Y tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xem xét, hỗ trợ vốn triển khai 03 dự án đầu tư trang thiết bị cho 3 trung tâm y tế cấp huyện trong 02 năm 2022-2023, cụ thể: Dự án đầu tư mua sắm trang thiết bị cho CDC và Trung tâm y tế các huyện, thành phố Bến Tre; Dự án đầu tư xây dựng mới Trung tâm y tế huyện Ba Tri; Dự án đầu tư xây dựng mới Trung tâm y tế huyện Bình Đại và một số chương trình, dự án phục hồi, phát triển kinh tế xã hội.
- Tổng giá trị đầu tư cho các hạng mục đề xuất từ nguồn này khoảng 5 ngàn tỷ đồng.
3. Đề nghị Bộ Giao thông vận tải, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính xem xét sớm triển khai giai đoạn 2 tuyến đường quốc lộ 57 (từ Bến phà Đình Khao, huyện Chợ Lách đến Khâu Băng, huyện Thạnh Phú) trong giai đoạn 2021 - 2025, với tổng mức đầu tư khoảng 1.700 tỷ đồng. Hiện tuyến đường đã đầu tư xong giai đoạn 1 do Bộ Giao thông và vận tải làm chủ đầu tư; đoạn còn lại của tuyến đường này đang xuống cấp rất nghiêm trọng, gây khó khăn cho vận chuyển hàng hóa và đi lại của người dân, thường xuyên xảy ra tai nạn giao thông.
4. Đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính cho chủ trương được đầu tư nâng cấp Tuyến đường huyện 173 giai đoạn 2 với tổng mức đầu tư khoảng 200 tỷ đồng để đủ tiêu chuẩn nâng lên thành tuyến đường tỉnh, cho phép xe container có thể lưu thông vận chuyển hàng hóa và tăng khả năng khai thác. Đây là một trong những tuyến đường huyết mạch của tỉnh kết nối từ Khu công nghiệp An Hiệp đến trung tâm huyện Ba Tri (huyện ven biển) được Trung ương hỗ trợ đầu tư.
5. Đề nghị Bộ Giao thông vận tải cho chủ trương đầu tư xây dựng cầu Đình Khao qua sông Cổ Chiên nối Bến Tre với Vĩnh Long theo hình thức hợp tác công tư (PPP) trong giai đoạn 2021-2025 và đề nghị NSTW bố trí vốn đầu tư phần vốn của Nhà nước. Hiện nay phà Đình Khao nằm trên Quốc lộ 57 nối 02 tỉnh Bến Tre – Vĩnh Long, do lượng phương tiện vận chuyển tăng cao nên thường xuyên bị ùn tắc, thời gian lưu thông chậm. tại bến chỉ còn có 2 phà đủ điều kiện hoạt động nên ảnh hưởng đến việc đi lại, vận chuyển hàng hóa của người dân và doanh nghiệp. Để kết nối đồng bộ, thông suốt hệ thống đường Quốc lộ trong thực hiện liên kết vùng giữa các tỉnh khu vực ĐBSCL nói chung và 02 tỉnh Bến Tre - Vĩnh Long nói riêng thì việc đầu tư xây dựng Cầu Đình Khao là rất cần thiết và phù hợp với quy hoạch mạng lưới đường bộ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
6. Về thanh toán kinh phí hỗ trợ nhà ở cho người có công theo Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg ngày 26-4-2013 của Thủ tướng Chính phủ: Ngày 25-12-2018 Bộ Tài chính có Công văn số 16160/BTC-NSNN có ý kiến không đồng ý hỗ trợ kinh phí thanh toán số nhà ở bổ sung vào Đề án là 2.020 căn với số tiền 61,180 tỷ đồng và đề nghị sử dụng nguồn ngân sách địa phương để hỗ trợ cho những hộ này. Lý do không nằm trong danh sách Đề án đã được Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội thẩm tra tính đến ngày 31-5-2017. Thực hiện Mục 19, Phần III, Thông báo số 264/TB-VPCP ngày 30/07/2020 của Văn phòng Chính phủ về việc Thông báo kết luận Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại buổi làm việc với lãnh đạo tỉnh Bến Tre. Ngày 9-9-2020, UBND tỉnh Bến Tre có Tờ trình số 4632/TTr-UBND, trình Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội xem xét, thẩm tra danh sách đối tượng người có công với cách mạng được hỗ trợ về nhà ở theo Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg ngày 26-4-2013 của Thủ tướng Chính phủ. Sau đó Uỷ ban nhân dân tỉnh Bến Tre có Công văn 6140/UBND-KGVX ngày 17-11- 2020 gửi Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội báo cáo bổ sung nội dung Tờ trình số 4632/TTr-UBND ngày 9-9-2020 và Công văn số 5241/UBND-KGVX ngày 1-9-2021 về việc phê duyệt chủ trương thanh toán kinh phí hỗ trợ nhà ở cho người có công theo Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg ngày 26-4-2013 của Thủ tướng Chính phủ nhưng đến nay vẫn chưa có thông tin kết quả phản hồi.
Đề nghị Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cùng các bộ, ngành Trung ương xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương cho tỉnh Bến Tre được sử dụng nguồn kinh phí đã cấp năm 2018 theo Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg ngày 26-4-2013 để thanh toán phần kinh phí hỗ trợ cho 2.020 hộ người có công khó khăn về nhà ở của tỉnh đã bổ sung vào Đề án của tỉnh Bến Tre.
7. Thực hiện công tác phòng chống dịch Covid-19, tỉnh Bến Tre đã chi mua sắm thuốc, hóa chất, vật tư, trang thiết bị y tế phục vụ phòng chống dịch bệnh Covid-19 và chi hỗ trợ cho người lao động không có giao kết hợp đồng. Hai khoản chi nêu trên vượt khả năng cân đối của ngân sách tỉnh. Vì vậy, tỉnh Bến Tre kiến nghị ngân sách trung ương hỗ trợ và địa phương sử dụng nguồn cải cách tiền lương còn dư của tỉnh để chi hỗ trợ.
8. Đề nghị Bộ kế hoạch và Đầu tư, Văn phòng chính phủ, Chính phủ xem xét sớm phê duyệt điều chỉnh chủ trương đầu tư KCN Phú Thuận để tạo điều kiện cho tỉnh triển khai các bước tiếp theo, nhằm sớm hoàn thiện hạ tầng và thu hút dự án đầu tư vào khu công nghiệp, khai thác tiềm năng phát triển của tỉnh.
9. Đề nghị Quốc hội, Chính phủ quan tâm vốn đầu tư đồng bộ dự án hệ thống thủy lợi, bảo đảm chủ động kiểm soát xâm nhập mặn và ứng phó với biến đổi khí hậu; kiểm soát mặn, điều tiết nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và tạo nguồn nước cho sinh hoạt với tổng kinh phí đầu tư 12.500 tỷ đồng. Trước mắt, cấp thiết tỉnh cần hỗ trợ khoảng 2.322 tỷ đồng đầu tư xây dựng dự án hệ thống thủy lợi Bắc, Nam Bến Tre để đầu tư hệ thống cống, đê bao khép kín cho vùng ngọt hóa tỉnh Bến Tre, kết hợp với hệ thống cống đã và đang đầu tư nhằm mục tiêu cơ bản hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi của tỉnh vào 2025.
10. Theo kết quả thống kê đất đai thì hiện tỉnh Bến Tre có 19 ngàn ha đất lúa; trong đó có khoảng 5 ngàn ha người dân đã chuyển sang trồng cây lâu năm, nuôi trồng thủy sản,... từ rất lâu nhưng không thực hiện thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất lúa theo Luật Đất đai. Theo quy định các dự án có sử dụng đất lúa từ 10 ha trở lên phải có văn bản chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ, dưới 10 ha phải thông qua HĐND tỉnh. Tuy nhiên, trong trường hợp này hiện trạng đất không còn là đất lúa nhưng vẫn phải áp dụng quy định nêu trên; việc này gây khó khăn cho địa phương trong quá trình thu hút đầu tư và triển khai các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Kiến nghị Quốc hội xem xét sửa đổi Luật đất đai theo hướng cho phép chỉnh lý đồng loạt hồ sơ địa chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lúa đối với các trường hợp này. trước ngày Luật Đất đai (Luật Đất đai đang sửa đổi) có hiệu lực.
11. Hiện nay giữa một số địa phương còn gặp vướng mắc về địa giới hành chính tại một số khu vực, nhất là tại các cồn đất giữa sông nhưng ở cấp độ địa phương chưa thống nhất giải quyết được phương án phân định (như Bến Tre - Tiền Giang, Bến Tre - Vĩnh Long). Kính đề nghị Chủ tịch Quốc hội xem xét chỉ đạo các cơ quan có liên quan nghiên cứu xây dựng các tiêu chí/nguyên tắc quy định chung hoặc chỉ đạo các cơ quan có liên quan giúp các địa phương sớm tháo gỡ vấn đề này.
Kính thưa đồng chí Chủ tịch Quốc hội và các đồng chí!
Tỉnh Bến Tre xin chân thành cảm ơn sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân Bến Tre. Tỉnh sẽ tiếp tục nỗ lực phấn đấu, thực hiện thành công, thắng lợi các mục tiêu Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI đề ra, đóng góp quan trọng, tích cực vào việc thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đưa Bến Tre và cả nước phát triển nhanh và bền vững.
Nhân dịp bước sang năm mới Nhâm Dần 2022, thay mặt Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân Bến Tre, tôi kính chúc các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, đồng chí Chủ tịch Quốc hội; các đồng chí thành viên trong Đoàn công tác; các đồng chí dự họp và gia đình luôn mạnh khỏe, hạnh phúc, an khang, thịnh vượng, năm mới thắng lợi mới!
Xin trân trọng cảm ơn đồng chí Chủ tịch Quốc hội và các đồng chí!
Lê Đức Thọ
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy
Chia sẻ bài viết |