 |
Nhờ nước ngọt từ cống đập Ba Lai, nhiều hộ dân trồng màu có thu nhập ổn định. |
Công trình cống đập Ba Lai hiện vẫn chưa hoàn thành, tuy nhiên trong thực trạng biến đổi khí hậu và áp lực nước mặn xâm nhập sâu ngày càng tăng, công trình này đã đem lại hiệu quả rất lớn cho vùng đất còn nhiều tiềm năng.
Hiện trạng
kinh tế - xã hội trước khi xây dựng công trình
Công trình cống đập Ba Lai là một trong nhiều
hạng mục đầu mối quan trọng thuộc hệ thống thủy lợi Bắc Bến Tre, được Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) phê duyệt từ những năm 2000. Công
trình có quy mô cửa thông nước 84m, gồm 10 khoang cửa, 2 khoang giữa mỗi khoang
rộng 10m, 8 khoang còn lại mỗi khoang rộng 8m. Cửa van bằng thép phun kẽm tự động
đóng mở hai chiều. Cầu giao thông trên cống rộng 7m, cao trình đỉnh đập +3,50.
Tổng mức đầu tư toàn bộ công trình là 83,3 tỷ đồng, được triển khai thi công
năm 2000 và hoàn thành đưa vào sử dụng năm 2004. Công trình này cùng với nhiều
công trình khác của hệ thống thủy lợi Bắc Bến Tre trong vùng dự án có nhiệm vụ
ngăn mặn, trữ ngọt, tiêu úng, tiêu chua, rửa phèn, cải tạo cho 139 ngàn héc-ta
đất tự nhiên, trong đó có 100 ngàn héc-ta đất sản xuất nông nghiệp, kiểm soát mặn
cho trên 20 ngàn héc-ta đất nuôi trồng thủy sản. Đồng thời, công trình còn góp
phần hình thành trục giao thông bộ giữa Ba Tri, Bình Đại, phát triển giao thông
thủy bộ trong khu vực.
Khi chưa xây dựng công trình cống đập Ba Lai,
nguồn sống chính của người dân trong vùng là sản xuất nông nghiệp, chủ yếu là
cây lúa, cây dừa nhưng sản lượng bình quân đầu người rất thấp. Nguồn nước ngọt
dùng sinh hoạt khan hiếm trầm trọng. Hàng năm, người dân phải đổi lấy nước ngọt
từ thượng nguồn sông Ba Lai chở về. Việc cải tạo đất hoang hóa ven biển đưa vào
sản xuất nông nghiệp chưa mạnh mẽ. Biện pháp ngăn mặn và cấp nước ngọt chưa
hoàn chỉnh, không chủ động, kịp thời nên cơ cấu cây trồng qua nhiều năm không
thay đổi. Tổng diện tích đất lúa vùng Ba Tri, Giồng Trôm, Bình Đại là 62 ngàn
héc-ta. Năng suất hàng năm không tăng, chỉ đạt mức trung bình từ 3 - 3,5 tấn/ha.
Việc mở rộng diện tích gieo trồng lúa, tăng vụ, thâm canh tăng năng suất đều bị
hạn chế. Nguyên nhân là thiếu nguồn nước ngọt, hạn, mặn xâm nhập sâu gây ảnh hưởng
trên 2/3 diện tích của vùng dự án. Diện tích trồng dừa khoảng 15 ngàn héc-ta, sản
lượng đạt khoảng 23 ngàn tấn. Do vậy, việc mở rộng diện tích gieo trồng lúa bằng
khai hoang, tăng vụ, cũng như thâm canh tăng năng suất còn nhiều hạn chế, khó
thực hiện. Mặt khác, vùng dự án được bao bọc bởi sông Tiền, Hàm Luông, Ba Lai,
đặc biệt sông Ba Lai qua vùng trung tâm cùng hệ thống kênh rạch khá dày đặc nên
trong mùa khô hầu hết đều bị nước mặn xâm nhập, nhất là từ tháng 2 - 5, tình trạng
thiếu nước ngọt rất trầm trọng và hạn hán thường xuyên xảy ra làm cho đất nhiễm
mặn, do thiếu nước ngọt nên sản lượng cây trồng trong khu vực rất thấp.
Hiệu quả
sau khi hoàn thiện công trình
Sau hơn 11 năm vận hành, công trình bước đầu
phát huy hiệu quả, phục vụ thiết thực cho việc phát triển kinh tế, văn hóa - xã
hội, nhất là các xã ven sông Ba Lai ở cù lao Bảo và An Hóa. Công trình tác động
tích cực giúp nông dân Bình Đại chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi thích hợp,
mang hiệu quả kinh tế, nâng cao đời sống cho dân nghèo. Diện tích trồng lúa tuy
không tăng nhưng năng suất bình quân ở các huyện đều tăng. Bình Đại từ 3,5 tấn/ha
tăng lên 4,2 tấn/ha; Giồng Trôm từ 4,6 tấn/ha tăng lên 5,2 tấn/ha; Ba Tri từ
4,3 tấn/ha tăng lên 4,9 tấn/ha. Tại các xã ven sông Ba Lai phía trong cống đập
từ Long Hòa đến Thạnh Trị (Bình Đại), nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật
nuôi thích hợp, kết hợp trồng xen, nuôi xen, nâng cao hiệu quả trên đơn vị diện
tích. Diện tích vườn dừa của các huyện Giồng Trôm, Ba Tri, Bình Đại năm 2005 là
16 ngàn héc-ta, sản lượng thu hoạch 100 ngàn tấn. Hiện nay, tổng diện tích vườn
dừa của 3 huyện là 25 ngàn héc-ta, sản lượng thu hoạch 195 ngàn tấn. Các vườn dừa
xã Châu Hưng, Lộc Thuận, Thới Lai nằm cặp sông Ba Lai, trước đây do ảnh hưởng mặn
nên trái nhỏ, nay trái to nhờ phù sa và nước ngọt của dòng Ba Lai bồi đắp.
Ngoài tăng năng suất, sản lượng, nông dân còn tận dụng đất dưới chân dừa trồng
xen ca cao, chuối, chanh đem lại hiệu quả tăng thêm.
Ngoài lĩnh vực trồng trọt, tại các xã vùng ngọt
ven sông Ba Lai như Châu Hưng, Long Hòa, Thới Lai, Phú Long, nông dân phát triển
nuôi trồng thủy sản nước ngọt gần 400ha, chủ yếu là nuôi cá sâu, ba ba, cá lóc,
cá rô đồng. Nhiều trang trại nuôi cá với quy mô lớn đã hình thành ven sông với
nhiều chủng loại đa dạng, phong phú, đã mở hướng đi mới cho Bình Đại; tăng cường
cấp nước ngọt cho các xã vùng sông Ba Lai của Ba Tri, Giồng Trôm trong chuyển đổi
cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Công trình cống đập Ba Lai không những ngăn mặn, trữ
ngọt, tiêu úng, tháo chua, cải tạo đất mà còn cung cấp nước ngọt sinh hoạt cho
hàng ngàn hộ dân các huyện Châu Thành, Giồng Trôm, Bình Đại. Vùng này cũng đã
có nhiều nhà máy nước sạch nông thôn được xây dựng trong thời gian gần đây để
khai thác nguồn nước ngọt sông Ba Lai phục vụ sinh hoạt và nuôi thủy sản.
Từ dự án đã xây dựng nhiều nhà máy nước như
Nhà máy nước Thới Lai công suất 80m3/h phục vụ cho 3 ngàn hộ dân ở Thới Lai,
Phú Vang, Vang Quới Đông, Vang Quới Tây, huyện Bình Đại. Nhà máy nước Long Định,
công suất 20m3/h nâng lên 40m3/h, phục vụ cho 1.300 hộ dân các xã Long Định,
Long Hòa, Châu Hưng, Phú Thuận, huyện Bình Đại. Nhà máy nước Tân Mỹ, công suất
330m3/h, phục vụ cho 8 ngàn hộ dân ở 13 xã và thị trấn Ba Tri. Nhà máy nước Ba
Lai, huyện Bình Đại công suất 2.000m3/h phục vụ cho 1 ngàn hộ dân các xã Thạnh
Trị, Đại Hòa Lộc, Thạnh Phước, Thới Thuận và cung cấp nước ngọt phục vụ nuôi trồng thủy sản.
Dự án Ba Lai gồm rất nhiều hạng mục như cống
đầu mối, hệ thống đê ngăn mặn, hệ thống kênh trục. Tuy nhiên, do hệ thống chỉ mới
đưa vào sử dụng công trình cống đập Ba Lai, cống Định Trung với quy mô 40m cửa,
công trình nạo vét thượng nguồn sông Ba Lai, cống Sơn Đốc 2 với quy mô 60m cửa,
một số hệ thống đê biển Ba Tri, Bình Đại. Hiện Bộ NN&PTNT đang vận động nguồn
vốn ODA để hỗ trợ tiếp tục đầu tư các công trình lớn như: cống An Hóa có chiều
rộng 130m; cống Thủ Cửu có chiều rộng cửa 60m; cống Bến Tre có chiều rộng cửa
70m và hệ thống đê bao ven sông Tiền, sông Hàm Luông. Các hạng mục khác chưa được
đầu tư đồng bộ và hệ thống chưa khép kín nên thực tế công trình chỉ mới đáp ứng
được một phần yêu cầu ngăn mặn và trữ ngọt.
Mặc dù công trình cống đập Ba Lai chỉ mới
hoàn thành giai đoạn 1 nhưng đã có những tín hiệu khả quan. Nếu công trình cống
An Hóa, cống Bến Tre, đê ven sông Tiền, sông Hàm Luông khép kín thì chắc chắn cống
đập Ba Lai sẽ phát huy hiệu quả cao hơn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế -
xã hội trong vùng dự án. UBND tỉnh đang đề nghị các bộ, ngành Trung ương tiếp tục
xem xét đầu tư các công trình đầu mối còn lại như cống An Hóa, cống Thủ Cửu, cống
Bến Tre, cống Tân Phú, cống Bến Rớ và hệ thống đê bao sông Tiền, sông Hàm
Luông; bổ sung vốn đầu tư xây dựng tuyến đê biển Bình Đại và hoàn chỉnh đê biển
Ba Tri giai đoạn 2.