Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay, việc nuôi tôm càng xanh
toàn đực bán thâm canh đã được triển khai ở một số tỉnh như: An Giang, Đồng
Tháp… cho hiệu quả kinh tế khá cao và ổn định. Tại Bến Tre, nghề nuôi tôm càng
xanh đã có từ lâu nhưng chủ yếu nuôi tôm bản địa có tỷ lệ tôm đực khoảng 50% và
tôm cái khoảng 50% với các hình thức như: xen trong ruộng lúa, mương vườn dừa với
sản lượng thấp không đáp ứng đủ nhu cầu thị trường tiêu thụ. Mặt khác, tôm càng
xanh là loài thủy sản có thịt thơm, ngon và có giá trị kinh tế cao, phục vụ cho
nhu cầu tiêu thụ trong nước và tạo sản phẩm hàng hóa cho xuất khẩu; giá tôm
thương phẩm luôn ở mức cao, dao động từ 200 - 400 ngàn đồng/kg tùy cỡ thu hoạch,
thậm chí tôm loại 1 có lúc đạt 500 ngàn đồng/kg. Tôm càng xanh toàn đực có tốc
độ phát triển nhanh, kích cỡ đồng đều, cải thiện đáng kể năng suất nuôi, gia
tăng hiệu quả sản xuất. Vì vậy, việc áp dụng mô hình nuôi tôm càng xanh toàn đực
bán thâm canh ở những vùng nuôi tôm biển tự phát ngoài vùng quy hoạch, vùng ngọt
hóa của tỉnh nhằm nâng cao năng suất đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước và cho
xuất khẩu là cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Nhằm gia tăng hiệu quả trong quá trình nuôi tôm càng xanh
toàn đực bán thâm canh, người nuôi tôm cần tuân thủ đúng quy trình kỹ thuật
sau:
1. Chuẩn bị ao nuôi
Sửa lại bờ, cống, đắp hang mọi, rò rỉ và sửa thiết bị chống
địch hại, xả cạn nước, phơi khô đáy ao. Cần diệt tạp trước khi lấy nước. Ao có
pH thấp (5 - 6,5), bón từ 200 - 300kg vôi (CaCO3)/1.000m2. Ao cũ bón 100 -
200kg vôi (CaCO3)/1.000m2. Sau khi bón vôi 2 - 3 ngày, lấy đầy nước vào ao nuôi
qua túi lọc. Gây màu nước: Có thể bón phân hữu cơ (20kg/1.000m2) hoặc vô cơ NPK
(5kg/1.000m2), hoặc Urê hoặc lân... để gây màu. Thả chà (nhánh cây khô đã rụng
lá không chát) được cắm thành từng cụm trong ao để làm nơi trú ẩn cho tôm hoặc
có thể bố trí lưới giăng trong ao nuôi tôm thay thế việc thả chà làm giá thể
cho tôm, giúp tôm tăng tỷ lệ sống do hạn chế việc ăn thịt lẫn nhau trong những
thời điểm tôm lột xác.
Lưu ý, đối với tôm càng xanh không cần thiết xử lý bằng
Chlorin A, có thể dùng BKC hoặc Iodine.
2. Chọn và thả giống
Hiện nay, việc đưa giống tôm càng xanh toàn đực vào nuôi
bán thâm canh được đặc biệt quan tâm, vì giải quyết được tình trạng tôm cái
mang trứng và tôm đực càng xào. Kích cỡ giống từ: 1 - 2cm. Mật độ thả giống
thích hợp đối với hình thức nuôi bán thâm canh là: 8 - 12 con/m2. Nên thả giống
vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát và có các yếu tố môi trường phù hợp giữa bể
ương và ao nuôi như: nhiệt độ, pH, độ mặn.
3. Quản lý ao nuôi
Thức ăn: Tốt nhất nên cho tôm ăn thức ăn viên công nghiệp,
có độ đạm từ 25 - 32%. Giai đoạn đầu có thể sử dụng thức ăn cho tôm sú hoặc thẻ
chân trắng. Giai đoạn sau có thể sử dụng xen (1 lần/ngày) thức ăn tự chế biến
đã nấu chín để hạ giá thành. Thời gian đầu rải khắp ao, về sau hạn chế đường
rãnh giữa ao nuôi (nơi tập trung nhiều chất thải). Số lần cho ăn từ 2 - 3 lần/ngày.
Liều lượng cho ăn (cho 100 ngàn con giống): ngày đầu tiên cho ăn 1,2kg, sau đó
tăng dần khoảng 100gam/ngày, tuần thứ 2: 200gam/ngày, tuần thứ 3: 300gam/ngày,
tuần thứ 4: 500gam/ngày. Sau tháng đầu tiên có thể dùng nhá để kiểm tra mức độ
sử dụng thức ăn của tôm để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp.
Lưu ý, liều lượng cho ăn phụ thuộc vào khả năng bắt mồi của
tôm, thời tiết, thông qua thức ăn còn lại trong nhá.
Quản lý môi trường ao nuôi: Tôm càng xanh rất nhạy cảm với
sự thay đổi của các yếu tố môi trường, đặc biệt là oxy hòa tan. Do đó, việc quản
lý môi trường ao nuôi tốt là điều hết sức quan trọng, mang tính quyết định đến
sự thành công của vụ nuôi. Cần duy trì các yếu tố môi trường trong khoảng tối
ưu hoặc trong các trường hợp có sự thay đổi, thì biên độ của sự thay đổi càng
nhỏ là càng tốt.
Chế độ quạt nước, sục khí: Nhu cầu máy quạt nước cho ao
nuôi như sau: Ao có độ sâu nhỏ hơn 1,2m, diện tích từ 1.000 - 4.000m2, cần 2
giàn quạt nước và mỗi giàn quạt nước bố trí từ 12 - 15 cánh quạt; ao có độ sâu
trên 1,2m và diện tích 4.000m2 trở lên, cần bố trí 4 giàn quạt và mỗi giàn quạt
bố trí từ 12 - 15 cánh. Ngoài ra có thể bổ sung hệ thống máy sục khí để cung cấp
oxy cho tôm nuôi.
Thay nước: đối với tôm càng xanh việc thay nước rất quan
trọng, cần chủ động và thay nước thường xuyên, lượng nước thay từ 20 - 30% nước
trong ao nuôi. Khi cấp nước cần kiểm tra các yếu tố môi trường trong ao lắng và
ao nuôi phải có sự tương đồng và đảm bảo chất lượng nguồn nước cấp vào không bị
ô nhiễm.
Theo dõi và quản lý sức khỏe tôm nuôi: Trong quá trình
nuôi cần chú ý theo dõi tôm nuôi trong ao để có biện pháp điều chỉnh kịp thời
và hợp lý. Hàng tuần cần chài tôm để quan sát đường ruột nhằm đánh giá mức độ bắt
mồi, những dấu hiệu của bệnh trên tôm (quan sát mang, màu sắc, khối cơ, những
biến dạng khác của tôm…), cần theo dõi và dự đoán thời kỳ lột xác của đàn tôm
nuôi trong ao để có những điều chỉnh về lượng thức ăn, quạt nước, sục khí, hoặc
chuẩn bị thu hoạch…
Bẻ càng: Cần áp dụng biện pháp bẻ càng nhằm giúp tôm lớn
nhanh, tăng tỷ lệ sống và gia tăng hiệu quả kinh tế. Phương pháp bẻ càng và chọn
thời điểm phải áp dụng đúng thời điểm và đúng quy trình.
Phòng bệnh: phải tiến hành cấp nước hoặc thay nước định kỳ
để kích thích tôm lột xác, có thể trộn Vitamin C vào thức ăn kết hợp men vi
sinh đường ruột nhằm tăng cường khả năng tiêu hóa cho tôm nuôi tại những thời
điểm cần thiết.
4. Thu hoạch
Sau thời gian nuôi khoảng 4 tháng có thể tiến hành thu hoạch,
chủ yếu là những cá thể không có khả năng phát triển (tôm càng xào, ốp vỏ). Việc
thu hoạch cần lưu ý đến kích cỡ, chất lượng tôm nuôi và giá cả thị trường. Thu
hoạch tôm càng xanh cần phải tiến hành thu nhiều lần. Thực hiện các biện pháp
tăng cường oxy bằng cách sục khí trong các bể chứa tôm thương phẩm nhằm để tôm
không bị chết ngạt.
Trước tình hình như hiện nay, việc nuôi tôm biển ở những
vùng ngọt hóa, vùng ngoài quy hoạch, vùng có độ mặn thấp gặp quá nhiều rủi ro
và khó khăn thì việc phát triển nuôi đối tượng tôm càng xanh toàn đực bán thâm
canh nhằm đa dạng hóa đối tượng nuôi để hạn chế rủi ro nhằm phát triển ổn định
nghề nuôi trồng thủy sản phù hợp với định hướng và kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội của địa phương, góp phần vào việc thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp
của tỉnh nhà.