Tăng tốc để về đích

06/02/2015 - 15:10

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CCKT) theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được Đảng, Nhà nước ta xác định là con đường tất yếu để đất nước nhanh thoát khỏi tình trạng lạc hậu, chậm phát triển, trở thành một quốc gia văn minh, hiện đại. 

Nội dung và yêu cầu cơ bản của chuyển dịch CCKT là tăng nhanh tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành công nghiệp, xây dựng (gọi chung là công nghiệp, khu vực II - CN KV II) và thương mại - dịch vụ (dịch vụ - DV KV III), đồng thời giảm dần tương đối tỷ trọng các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp (nông nghiệp - NN KV I). Đối với tỉnh nhà, qua 4 năm thực hiện Nghị quyết (NQ) Đại hội IX Đảng bộ tỉnh cho thấy, CCKT đang chuyển dịch đúng hướng.

Tỷ trọng KV II và KV III tăng dần

Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX (2010) xác định mục tiêu giai đoạn 2011-2015 là “động viên mọi nguồn lực, thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững; kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với chăm lo phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, giữ vững ổn định chính trị và an toàn xã hội…”. Với các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu: Đẩy mạnh phát triển CN - tiểu thủ CN để CN thật sự là khâu đột phá, thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch CCKT. Xây dựng nền NN hiện đại, đa dạng theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, hiện đại, bền vững, thân thiện với môi trường; gắn phát triển NN với giải quyết tốt các vấn đề nông dân, nông thôn. Phát triển mạnh các ngành DV, nhất là DV du lịch, thương mại và các DV có giá trị gia tăng cao để phục vụ sản xuất và sinh hoạt của nhân dân...

Qua 4 năm triển khai thực hiện, kết quả chuyển dịch CCKT cũng như tốc độ phát triển trên từng KV đều đạt những thành tựu nhất định. So với thời điểm 2005, rõ ràng là CCKT tỉnh nhà đang chuyển dịch theo hướng giảm dần KV I, tăng dần KV II và KV III. Cụ thể, giai đoạn 2005-2010, tỷ trọng KV I từ 58,11% giảm còn 45,66%; KV II từ 17,62% tăng lên 18,57% và KV III từ 24,27% tăng lên 35,77%. Nét nổi bật của chuyển dịch CCKT của giai đoạn này là trong NN, cơ cấu cây trồng, vật nuôi chuyển dịch theo hướng chất lượng, hiệu quả, khai thác tốt lợi thế từng vùng; CN và DV được chú trọng đầu tư trong phát triển, tỷ trọng tăng dần trong CCKT. Từ năm 2011-2014, CCKT tỉnh nhà tiếp tục chuyển dịch tích cực, hiện tỷ trọng KV I là 43,5%, KV II là 21,3% và KV III là 35,20% (xem biểu đồ).

Về tốc độ phát triển, KV I tăng trưởng nhanh và khá toàn diện, hai thế mạnh kinh tế thủy sản và kinh tế vườn thể hiện là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, KV II và KV III phát triển khá nhanh. Nhìn chung, điểm nổi bật là tốc độ phát triển của KV I thấp hơn so với KV II và KV III.

Nhưng còn xa mục tiêu

Qua phân tích 10 năm, từ 2005-2014, có thể thấy vị trí, vai trò quan trọng của KV I đối với toàn bộ nền kinh tế của tỉnh. Tuy tốc độ tăng của KV I giai đoạn 2005-2014 là thấp (dưới 10%), nhưng giá trị tuyệt đối là vẫn lớn so với KV II và KV III. Sự tăng hay giảm của KV I ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế của tỉnh. Khu vực II và KV III tuy tốc độ tăng cao nhưng quy mô nhỏ hơn so với KV I. Nếu so với CCKT cả nước, hiện tỷ trọng KV I chiếm 18,12%, KV II là 38,5% và KV là 43,38%, thì CCKT tỉnh nhà vẫn còn lạc hậu. Với CCKT ngành như trên, thì nền kinh tế tỉnh nhà sẽ chậm phát triển, đời sống nhân dân còn khó khăn, rất khó thu hẹp khoảng cách về kinh tế so với các tỉnh trong vùng và cả nước.

Về tốc độ tăng trưởng kinh tế, mặc dù đã có sự chuyển dịch đúng hướng, song tiến độ còn chậm so với mục tiêu, kế hoạch cần phải thực hiện. Quá trình chuyển dịch CCKT chưa thật sự tạo được dấu ấn tác động tích cực lên toàn bộ nền kinh tế, kết cuộc là trong giai đoạn từ 2011-2014, nhiều chỉ tiêu đạt còn thấp so với NQ đề ra.


Biểu đồ: CCKT ngành của tỉnh Bến Tre giai đoạn 2005-2015.

Điểm rõ nhất là đối với KV II, được xác định là mũi đột phá trong chuyển dịch CCKT, nhưng phát triển chưa đạt yêu cầu. Sức cạnh tranh của sản phẩm CN còn thấp; thu hút đầu tư chưa mạnh, KV II vẫn chưa đủ lực để thúc đẩy chuyển dịch CCKT. Với mục tiêu NQ đặt ra trong cả 2 giai đoạn, từ 2005-2010 và 2011-2015 đều không đạt. Tốc độ tăng bình quân KV II giai đoạn 2011-2014 tuy cao, bình quân khoảng 15%/năm, nhưng vẫn thấp so với mục tiêu tổng thể của cả nhiệm kỳ 2011-2015. Tỷ trọng KV II trong CCKT tỉnh nhà vẫn còn khá thấp, KV I vẫn chiếm tỷ trọng cao, so KV II gấp 2,9 lần (năm 2005) và giảm còn 2 lần (năm 2014).

Ngay từ đầu nhiệm kỳ 2010-2015, trên cơ sở NQ của Đảng bộ tỉnh, UBND tỉnh xác định một số khâu quyết định để thúc đẩy kinh tế - xã hội (KT-XH) phát triển nhanh, bền vững. Trong đó nhấn mạnh “phát triển CN làm khâu đột phá trong chuyển dịch CCKT, tạo tiền đề và động lực thúc đẩy các ngành thương mại, DV và du lịch phát triển đồng bộ, góp phần bảo đảm an sinh xã hội và thực hiện giảm nghèo bền vững....”. Kết quả tuy có cải thiện đáng kể, nhưng CN vẫn chưa thật sự tạo bước đột phá, trong 4 năm (2011-2014), tỷ trọng KV II trong CCKT tăng không quá 5%... Nguyên nhân chủ yếu là do xuất phát điểm kinh tế tỉnh nhà còn thấp, thời gian gần đây chịu sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới; tiến độ thi công một số công trình trọng điểm và xây dựng hạ tầng khu CN chậm do khó khăn về vốn và vướng mắc trong giải phóng mặt bằng...

Cần sự bứt phá mạnh hơn

Đánh giá về CCKT tỉnh nhà, ông Võ Thành Hạo - Chủ tịch UBND tỉnh cho biết, cơ bản vẫn là NN, CN và DV chiếm tỷ trọng thấp. Thực trạng CCKT cho thấy, không thể phát triển bằng NN nhưng hiện vẫn duy trì và dự báo 10 năm nữa, NN sẽ vẫn là nền tảng. Trong khi đó, “lời đáp hiện thực” là phải chuyển dịch CCKT theo hướng tăng CN và DV, giảm NN. Bởi giá trị mới tạo ra từ CN lớn, nhanh và DV du lịch của tỉnh còn nhiều tiềm năng cần được đánh thức để ngành “CN không khói” thu hút các nhà đầu tư, tạo thêm sản phẩm du lịch hấp dẫn, góp phần lớn tạo ra giá trị mới, nhiều khi có ưu thế cao hơn NN.

Vấn đề đặt ra là “Làm thế nào để chuyển dịch CCKT hiệu quả, giảm tỷ trọng KV I, tăng KV II và KV III, trong điều kiện CN đóng vai trò cốt lõi nhưng NN vẫn đảm bảo an ninh lương thực?”. Có nhiều giải pháp đã được các ngành, các cấp của tỉnh triển khai và đang tiếp tục thực hiện ở từng lĩnh vực, tiêu biểu như: Đề án nâng cấp, phát triển hệ thống hạ tầng KT-XH tỉnh Bến Tre, giai đoạn 2011-2015; Đề án Tái cơ cấu ngành NN theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững tỉnh Bến Tre, giai đoạn 2011-2015 và định hướng 2020; Đề án tổng thể thể xây dựng Nông thôn mới giai đoạn 2010-2015 và định hướng 2020; Đề án Phát triển du lịch tỉnh Bến Tre giai đoạn 2011-2015... Đối với CN, để trở thành khâu đột phá, theo ông Trương Minh Nhựt - Giám đốc Sở Công Thương, có 8 nhóm giải pháp chủ yếu, trong đó tập trung cao vào huy động các nguồn vốn và đẩy mạnh thu hút đầu tư vào các khu, cụm CN.

Thời gian còn lại của giai đoạn 2011-2015 không nhiều, để đưa tỷ trọng KV II trong CCKT từ 21,3% lên 27,4% theo mục tiêu NQ Đại hội IX Đảng bộ tỉnh là một bài toán nan giải. Dù vậy, năm 2015 là năm cuối nhiệm kỳ nên có ý nghĩa rất quan trọng, đòi hỏi các cấp, các ngành, cán bộ và các tầng lớp nhân dân phải tăng tốc để về đích. Trong khả năng có thể, rất cần sự nỗ lực hơn nữa, tập trung triển khai thực hiện hoàn thành mức cao nhất mục tiêu phát triển KT-XH năm 2015 được thông qua tại Kỳ họp thứ 11, HĐND tỉnh (khóa VIII) là: “Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội để phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao hơn và vững chắc hơn năm 2014, nhằm góp phần thực hiện đạt kết quả cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu còn lại trong kế hoạch 5 năm 2011-2015”. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) tăng 7,8%, KV I tăng 3,8%, KV II tăng 14,55% và KV III tăng 7,59%; tỷ trọng CCKT là KV I chiếm 42,4%, KV II 22,6% và KV III 35%...

Những thành tựu đạt được trong thực hiện kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm 2011-2015 là tiền đề quan trọng, tạo nền tảng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nhiệm kỳ tới. Khi hội đủ các điều kiện thuận lợi và “khắc phục khó khăn, lấp đầy những chỗ hở về mặt chính sách”, cùng với sự quyết tâm cao của Đảng bộ và nhân dân, hy vọng rằng lĩnh vực CN và DV sẽ bứt phá mạnh hơn, góp phần thúc đẩy chuyển dịch CCKT tỉnh nhà theo hướng hiện đại.

KA PHONG

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN