|
Khảo sát xây dựng Nhà máy nước Thạnh Phú. |
Chương trình Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn (NS-VSMTNT) trong thời gian qua đã được tập trung đầu tư từ ngân sách nhà nước, được sự hỗ trợ mạnh mẽ của các tổ chức quốc tế và người dân. Nhờ vậy, 100% các điểm trường chính trong toàn tỉnh và trạm y tế xã có đủ nước sạch và nhà tiêu hợp vệ sinh. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, nguồn vốn đầu tư cho NS-VSMTNT còn thấp so với nhu cầu mục tiêu đề ra, do các nhà đầu tư chỉ thực hiện ở những địa bàn thuận lợi như khu dân cư tập trung để thu hồi vốn nhanh.
Những
công trình, dự án thiết thực
Ông Huỳnh Kim Mười - Giám đốc Trung tâm
NS-VSMTNT đánh giá: Hiện nay, tỷ lệ dân cư nông thôn sử dụng nước sinh hoạt hợp
vệ sinh đạt 86%, tăng 1% so với kế hoạch chương trình đề ra. Trong đó, tỷ lệ
dân cư nông thôn sử dụng nước sạch theo quy chuẩn 02 của Bộ Y tế đạt 41/45%; tỷ
lệ hộ dân nông thôn có nhà tiêu hợp vệ sinh đạt 45,5/65%; hộ chăn nuôi có chuồng
trại hợp vệ sinh đạt 63/45%. Nguồn vốn đầu tư trong năm 2015 là 28,9 tỷ đồng. Vốn
Chương trình mục tiêu quốc gia NS-VSMTNT 13,36 tỷ đồng, vốn trái phiếu Chính phủ
nông thôn mới 5 tỷ đồng, vốn ngân sách địa phương 3 tỷ đồng, nguồn vốn của Tổ
chức Đông Tây Hội Ngộ 4,14 tỷ đồng, Quỹ phát triển sự nghiệp của trung tâm nước
3,4 tỷ đồng.
Ban điều hành chương trình đã tập trung hoàn
thành các dự án Nhà máy nước Châu Bình, công suất 60m3/h ngày đêm, phục vụ cho
2.223 hộ dân. Đầu tư mở rộng Nhà máy nước Thạnh Phú, từ 60m3/h lên 120m3/h, cấp
cho khoảng 5.000 hộ dân ở 13 xã. Hiện đang thi công giai đoạn I Dự án cấp nước
và vệ sinh dựa vào kết quả đầu ra do Tổ chức Đông Tây Hội Ngộ tài trợ tại 9 điểm
dự án, cung cấp cho 1.523 hộ dân. Chuẩn bị triển khai nhiều dự án khác như Nhà
máy nước Hưng Phong, huyện Giồng Trôm; nâng cấp, mở rộng Nhà máy nước Thành Thới
A, huyện Mỏ Cày Nam từ 10 lên 80m3/h. Bổ sung thêm các hạng mục xử lý nước sạch
ở Nhà máy nước ngọt Ba Lai từ 500m3/h lên 110m3/h để cung cấp nước sạch cho người
dân huyện Bình Đại, Ba Tri. Dự kiến cuối năm 2015, tỷ lệ dân cư nông thôn sử dụng
nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 87%. Riêng dự án vệ sinh nông thôn, dự kiến cuối
tháng 11-2015 sẽ hoàn thành 170 nhà tiêu hợp vệ sinh cho 170 hộ nghèo tại 10 xã
điểm trong tỉnh.
Một số
khó khăn, Thách thức
Theo ông Huỳnh Kim Mười, vào mùa khô, nước mặn
từ biển Đông xâm nhập sâu vào đất liền với hơn 2/3 diện tích toàn tỉnh, độ mặn
4%o cách các cửa sông từ 50 - 60km, có thời điểm độ mặn 1,2%o gần như bao phủ
toàn tỉnh, làm ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất, sinh hoạt của người dân. Trong
khi đó, nguồn nước ngầm trong tỉnh đều bị nhiễm mặn không đạt tiêu chuẩn sử dụng,
ngoại trừ một vài khu vực Thạnh Phú, Châu Thành. Vì vậy, ngoài cung cấp nước từ
các nhà máy nước lấy nguồn nước trên sông, rạch để xử lý, cung cấp cho người
dân tại các khu tập trung dân cư, ven lộ thì việc cung cấp nước cho người dân sống
phân tán, vùng sâu, len lỏi trong ruộng vườn rất khó khăn. Mặt khác, các xã đồng
loạt đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới và việc mở rộng tuyến ống làm ảnh hưởng đến
mạng lưới cấp nước cho người dân. Một số công trình thiếu vốn đối ứng, làm chậm
tiến độ.
Tại cuộc họp sơ kết đánh giá tiến độ thực hiện
Chương trình NS-VSMTNT (ngày 20-8-2015), ông Nguyễn Hữu Lập - Phó Chủ tịch UBND
tỉnh ghi nhận kết quả đạt được. Trong đó, 100% trường học, trạm y tế đảm bảo nước
sạch, hố xí hợp vệ sinh là điều rất đáng được ghi nhận. Tuy nhiên, kết quả này
còn thấp. Công tác phối hợp triển khai chương trình còn nhiều bất cập, nhất là
trong công tác huy động nguồn vốn. Vì vậy, các sở, ngành địa phương cần tiếp tục
tranh thủ nguồn vốn của Trung ương, của tỉnh, các tổ chức xã hội khác, nguồn vốn
tín dụng, huy động của các doanh nghiệp, vốn của dân; bố trí vốn ngân sách phù
hợp cho các công trình, tạo điều kiện tốt nhất cho doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh
vực NS-VSMTNT. Phó Chủ tịch UBND tỉnh cũng lưu ý, vấn đề bức xúc hiện nay của Bến
Tre là biến đổi khí hậu và nước biển dâng ngày càng thể hiện rõ hơn, độ mặn
tăng cao hơn. Ngành Nông nghiệp cần có phương án cụ thể để đối phó kịp thời, hiệu
quả khi nước mặn bao phủ toàn địa bàn Bến Tre.