Bà T.T.Vân (Giồng Trôm) yêu cầu tư vấn vụ việc như sau: Tháng 6-2015, bà Vân có vay của bà L.T.Hồng số tiền 300 triệu đồng với lãi suất 5%/tháng, thời hạn vay 6 tháng. Bà Hồng đồng ý cho bà Vân vay với điều kiện là bà Vân phải ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất do bà Vân đứng tên tại thị trấn Giồng Trôm, trị giá 300 triệu đồng (có công chứng) để bảo đảm nghĩa vụ trả số tiền vay trên. Hợp đồng này chỉ có bà Vân ký tên, chồng bà Vân không biết giao dịch này.
Sau đó, bà Hồng tự ý làm thủ tục sang tên thửa đất trên
và được UBND huyện Giồng Trôm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ). Bà
Hồng buộc bà Vân phải giao đất nhưng bà Vân không đồng ý giao đất. Bà Vân cho rằng
mình không bán đất mà chỉ ký hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ để nhằm bảo đảm cho
nghĩa vụ trả nợ vay theo yêu cầu của bà Hồng.
Theo bà Vân, lúc bà làm hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ thì
có người khác biết việc này. Như vậy, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa
đất nêu trên có hiệu lực pháp luật không? Để đòi lại thửa đất, bà Vân phải làm
gì?
Luật sư Phạm Thị Kim Tuyến (Đoàn Luật sư Bến Tre) tư vấn
như sau:
Theo nội dung vụ việc, cho thấy bản chất của giao dịch
này là quan hệ vay tiền ban đầu trở thành quan hệ chuyển nhượng QSDĐ. Điều này
đã làm nảy sinh tranh chấp và vụ việc trở nên phức tạp.
Căn cứ Khoản 1, Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình năm
2014, nếu QSDĐ của bà Vân có được trong thời kỳ hôn nhân, mặc dù trên giấy tờ
chỉ đứng tên bà Vân và không có văn bản nào thể hiện đó là tài sản riêng của
bà, thì về nguyên tắc đây được xem như là tài sản chung của vợ chồng. Trường hợp
này chỉ có bà Vân làm hợp đồng chuyển nhượng thì không hợp pháp, do chưa có sự
đồng ý của chồng bà.
Mặt khác, theo quy định tại điểm g, Khoản 1, Điều 179 Luật
Đất đai năm 2013: “Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có quyền thế chấp QSDĐ tại
tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam, tại tổ chức kinh tế khác hoặc
cá nhân theo quy định của pháp luật”, cho thấy pháp luật đất đai không quy định
việc bảo đảm giao dịch vay tiền bằng hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ. Do vậy, việc
bà Hồng buộc bà Vân phải làm hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ để bảo đảm việc trả nợ
vay là không đúng quy định của pháp luật.
Căn cứ các quy định nêu trên và nếu bà Vân có đủ chứng cứ
chứng minh việc ký hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ chỉ là nhằm để bảo đảm nghĩa vụ
trả nợ vay cho bà Hồng thì vợ chồng bà Vân có quyền khởi kiện, yêu cầu Tòa án
nhân dân huyện Giồng Trôm tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ vô hiệu. Đồng thời,
bà Vân có quyền yêu cầu tòa án tuyên hủy giấy chứng nhận QSDĐ đã cấp cho bà Hồng
theo quy định của pháp luật.