Từ phong trào Đồng khởi đến phát huy vai trò của quần chúng thời kỳ đổi mới đất nước (*)

15/01/2016 - 07:35

Nữ tướng Nguyễn Thị Định - Người chị cả thân thương của Đội quân tóc dài. Ảnh tư liệu

LTS: Báo Đồng Khởi xin trích giới thiệu bài tham luận của đồng chí Nguyễn Thị Khao (Út Thắng) - nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy,  nguyên Trưởng Ban Chỉ đạo đấu tranh chính trị tỉnh tại Hội thảo khoa học lịch sử “Phong trào Đồng khởi - Trí tuệ, sáng tạo của quân và dân đồng bằng sông Cửu Long, do Bộ Tư lệnh Quân khu 9 phối hợp Viện Lịch sử quân sự Việt Nam tổ chức.

Đương đầu, không nao núng

…Miền Nam sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 là một miền Nam đau thương đầy máu và nước mắt. Mỹ-ngụy quyết tâm phá hoại hiệp định, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Chúng đã công khai khủng bố những người yêu nước bằng chiến dịch “Tố cộng, diệt cộng” vô cùng dã man và tàn bạo. Làng quê Bến Tre trở nên ngột ngạt, ngập chìm trong không khí khủng bố, trả thù, chết chóc, tù đày và ly tán. Hàng ngàn cán bộ, đảng viên, quần chúng cách mạng bị giết, thủ tiêu, bắt bớ, tra khảo. Trường học, thánh thất, nhà thờ, đình, chùa… trở thành nơi tra tấn, giam cầm. Phong trào cách mạng Bến Tre đứng trước những thử thách vô cùng hiểm nghèo.

Nhưng nhân dân Bến Tre - những người từng được rèn luyện trong ngọn lửa đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc đã hiểu sâu sắc rằng: Chỉ có đoàn kết đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng thì mới có độc lập, tự do thật sự. Phụ nữ Bến Tre đã nén đau thương, ổn định tư tưởng, tinh thần, khắc phục khó khăn tiễn đưa chồng và người thân tập kết ra Bắc, nhanh chóng bắt tay vào tiến hành cuộc đấu tranh chính trị ngoan cường với kẻ thù.

Mở đầu là cuộc biểu tình thị uy mừng hòa bình của 15.000 quần chúng ở huyện Bình Đại (18-8-1954) và 20.000 quần chúng ở huyện Mỏ Cày (13-9-1954) nhằm biểu dương lực lượng, nhưng khi địch khủng bố thì linh hoạt chuyển sang khẩu hiệu chống khủng bố.

Tiếp theo là các cuộc đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, chống khủng bố những người kháng chiến cũ, đòi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, đòi hiệp thương tổng tuyển cử, chống chỉ vụ 52 của chính quyền Ngô Đình Diệm diễn ra khắp nơi trong tỉnh. Mặc dù địch vô cùng ngoan cố và xảo quyệt, ngày càng sử dụng nhiều chính sách bình định gom dân chống phá cách mạng tàn bạo hơn, như lập ấp chiến lược, khu trù mật, nhằm tách dân ra khỏi ảnh hưởng của cách mạng, nhưng chúng không dập tắt được ngọn lửa đấu tranh được thắp lên từ lòng nồng nàn yêu nước, căm thù giặc sâu sắc của nhân dân Bến Tre.

Trái lại, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, phong trào đấu tranh của đồng bào và phụ nữ Bến Tre đã diễn ra với quy mô ngày càng cao, liên tục, quyết liệt, kéo dài và bằng nhiều hình thức phong phú, sáng tạo, linh hoạt. Bị địch đàn áp, bắn giết, chị em vận động đồng bào khiêng xác trực diện lên quận đấu tranh đòi bồi thường ở Ngãi Đăng, Cẩm Sơn, Thành An; được tin địch bắt cán bộ đem về đồn, ban đêm chị em vận động bà con nổi trống, gõ mõ, đốt đèn, đuốc, dùng cây, gậy gộc do địch trang bị “để bắt Việt cộng” rượt đuổi lính chạy về đồn giải vây cho cán bộ.

Năm 1960 là đỉnh cao của phong trào đấu tranh. Trước đó, chính quyền Ngô Đình Diệm đã ban hành luật phát xít 10/59, lê máy chém đi khắp miền Nam, thực hiện bắt, giết người vô tội mà không cần truy xét.

Địch càng điên cuồng chống phá, ngày 25-3-1960, Mỹ Diệm tập trung trên 12.000 thủy quân lục chiến và nhiều phương tiện tấn công vào 3 xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh (Mỏ Cày), chúng đã tàn sát 80 người dân vô tội, chôn sống 36 thanh niên. Nhưng chúng đã không ngờ vì phải đương đầu với một lực lượng tổng hợp bao gồm 1 đại đội vũ trang mới thành lập, một số anh em du kích, đặc biệt là hơn 5.000 phụ nữ với chiến thuật “tản cư ngược” được thảo luận từ trước, dùng hàng trăm ghe, xuồng chở theo quần áo, mùng, mền, nồi xoong, heo, gà, vịt… kéo lên thị trấn Mỏ Cày bao vây dinh Quận trưởng và một số lên dinh Tỉnh trưởng để đấu tranh. Hôm sau, hơn 3.000 phụ nữ các xã xung quanh cũng lên tiếp ứng. Số chị em còn lại ở địa phương làm công tác hù dọa, tuyên truyền, vận động binh sĩ địch và làm hậu cần tiếp tế cho chị em đấu tranh trực diện… Trước áp lực của quần chúng, sau 12 ngày đêm quần nhau, địch ra lệnh cho binh lính rút quân trước thời hạn, bị tổn thất nhiều sinh lực, nội bộ chúng hoang mang, mâu thuẫn nhau.

 Về phía ta, bảo toàn được lực lượng vũ trang còn non trẻ. Trận chống càn quy mô lớn và dài ngày đầu tiên này cộng với cuộc khiêng xác một bí thư chi đoàn xã Bình Hòa đấu tranh vào quận Giồng Trôm của 5.000 lực lượng suốt 3 ngày giành thắng lợi, đã giúp cho Tỉnh ủy đúc kết nâng lên hoàn chỉnh phương châm đấu tranh “2 chân, 3 mũi” trong một trận đánh, trong một cuộc chống càn và cũng qua đây thuật ngữ “Đội quân tóc dài” đã ra đời. Đồng thời khẳng định 2 chữ “Đồng khởi” chứa đựng trong đó nội dung: “Đồng loạt, đồng tình, đồng lòng nổi dậy, quật khởi chống lại địch” là đúng đắn và phát huy cao độ hơn. Từ đây, “Đội quân tóc dài” đã thật sự được xem như một binh chủng đặc biệt của Bến Tre; là nỗi ám ảnh, khiếp sợ của kẻ thù và đội quân này song hành với lực lượng vũ trang chiến đấu cho đến ngày toàn thắng 30-4-1975.

Từ năm 1962 trở về sau, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Tỉnh ủy, phong trào của phụ nữ ngày càng phát triển, đi vào chiều sâu. Địch khủng bố ngày càng ác liệt, các vụ thảm sát học sinh tại 2 trường Linh Phụng (Giồng Trôm) và Tân Bình (Mỏ Cày), rải chất độc hóa học, dùng B52 cày xới… càng làm cho quyết tâm chiến đấu của đồng bào, chị em lên cao hơn. Trước yêu cầu phải đấu tranh, bộ chỉ huy chuyên ngành của Đội quân tóc dài đã ra đời gồm: Ban Chỉ đạo bí mật, Ban Chỉ huy công khai từ cấp tỉnh đến huyện, xã. Tổ chức của lực lượng cũng chặt chẽ hơn có lực lượng thường trực, dự bị, khi cần đấu tranh, lực lượng biên chế thành tiểu đội, trung đội, đại đội có giao liên, trinh sát, hậu cần, cứu thương, kể cả ở nhà có các đội văn nghệ đón rước khi lực lượng đấu tranh trở về. Sau mỗi cuộc đấu tranh, Ban Chỉ đạo các cấp họp kiểm điểm, rút kinh nghiệm, khen thưởng, phê bình, kỷ luật nghiêm túc. Công tác chính trị, tư tưởng trong nội bộ lực lượng phụ nữ cũng được quan tâm chu đáo, chú trọng đấu tranh với những biểu hiện dao động trong chiến đấu kể cả tư tưởng cầu an, thiếu tin tưởng vào hiệu quả đấu tranh chính trị khi có quân Mỹ vào trong một số cán bộ lãnh đạo.

Đi vào lịch sử

Ngoài các cuộc đấu tranh trực diện, liên tục, hết bãi thị, đình công đến đi chợ nhồi, chính vì vai trò đó góp phần tiêu hao sinh lực địch, làm chúng mất phương hướng tấn công. Do đó, phong trào đấu tranh chính trị của đồng bào và phụ nữ đã ngày càng phát triển vững mạnh, quy mô lực lượng tham gia đấu tranh về sau càng tăng, có những đợt huy động 10, 25, 30 ngàn người tham gia. Cao điểm là chiến dịch Mậu Thân 1968 có tới 100 ngàn người tham gia, riêng điểm của tỉnh có 11 tiểu đoàn. Với khẩu hiệu “Một tấc không đi, một ly không rời”, chị em đã cùng với đồng bào kiên cường bám trụ. Địch rào hàng đắp lũy, đồng bào lại bạt lũy phá rào, có ấp chiến lược phá đi phá lại 40 - 50 lần. Đến năm 1964, không một ấp chiến lược nào do địch dựng còn nguyên vẹn.

Trong phong trào đấu tranh chính trị, chị em có điều kiện tiếp cận binh sĩ, sĩ quan địch nên làm công tác binh vận rất hiệu quả, biến ác ôn thành lưng chừng, lưng chừng tiến tới giác ngộ cách mạng, tiếp tục làm nội tuyến liên lạc qua cán bộ mật giao kết hợp với lực lượng bên ngoài lấy đồn địch (điển hình là bót An Định, Mỏ Cày, Châu Hòa, Châu Phú - Giồng Trôm…).

Tuy nhiên, đội quân đặc biệt này hợp tan không cố định, không có trường huấn luyện, không có vũ khí, không có quân trang, thậm chí chỉ huy không biết chiến sĩ, chiến sĩ cũng không biết mặt chỉ huy… nhưng luôn tỏ rõ là một lực lượng hoạt động có tổ chức, khi cần vận động, điều quân cực kỳ nhanh chóng, đầy đủ và nghiêm quân lệnh. Đặc biệt, có sự hiệp đồng chỉ huy thực hiện chiến thuật nhịp nhàng trong tiến công cũng như gìn giữ, che chở, bảo vệ nhau khi đối mặt với quân thù mà tay không một tấc sắt. Địch hoang mang, núng thế thì chị em tấn công nâng thêm yêu cầu đấu tranh, kết hợp khéo léo tranh thủ binh sĩ địch. Khi gặp ác ôn, hung hăng, chị em lại chuyển hướng xoa dịu để bảo tồn lực lượng, chị em nắm vững phương châm đánh thắng từng trận một, kiên trì, bền bỉ tạo thế, nuôi dưỡng, phát huy phong trào khi thời cơ có lợi, huy động sức mạnh tổng hợp “2 chân và 3 mũi giáp công” bủa vây và áp đảo quân thù, giành thắng lợi.

Trong cuộc đọ sức “một mất, một còn” vô cùng chênh lệch về mọi mặt với địch, phụ nữ Bến Tre rất xứng đáng với 8 chữ vàng “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” mà Đảng và Bác Hồ đã trao tặng cho phụ nữ. Có lẽ hiếm có nơi nào trong cuộc kháng chiến này, người phụ nữ phải chịu nhiều đau thương, mất mát đến như vậy. Nhưng cũng hiếm có nơi nào sức chịu đựng bền bỉ, phẩm chất anh hùng, bất khuất, kiên trung sắt son với Đảng, với cách mạng, tài trí thông minh, sáng tạo… của người phụ nữ lại được thể hiện mãnh liệt và tỏa sáng đến như vậy.

Trong tâm trí tôi, tình cảm của tôi vẫn không bao giờ phai nhạt hình ảnh của chị Ba Định, nữ du kích Tạ Thị Kiều (An Thạnh), Út Tuyết (Đa Phước Hội, Mỏ Cày) tay không đoạt đồn giặc; các chị Nguyễn Thị Hồng, Đoàn Thị E, Lê Thị Tranh, Huỳnh Thị Kiên… có tới hàng trăm lần đấu tranh với địch. Riêng chị Bảy Tranh (Thành Thới, Mỏ Cày) đã tham gia đến 300 cuộc đấu tranh trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn ác liệt, vừa phải gánh vác việc nhà, việc làng nhưng cứ trung bình 3 ngày 1 lần chị lại xuất hiện đương đầu với giặc. Chị đã bị địch đánh đập tàn nhẫn 20 lần, bị thương 5 lần, 1 lần gần chết, vậy mà vẫn khăng khăng cương quyết: “Cứ khiêng tôi đi tố cáo nó. Nếu tôi chết cũng đừng vội chôn, bà con có thương tôi thì cứ khiêng xác tôi đi đấu tranh đến cùng, dù rã thây cũng được!”. Đó là mẹ Kế đã chỉ thẳng vào mặt quân thù: “Chồng con tao ở trong trái tim tao, bây muốn kiếm thì moi tim tao mà lấy”. Đó là chị Út Hạnh bị tra tấn tàn bạo chết đi sống lại nhiều lần nhưng cố viết bức thư máu gửi về cho Tỉnh ủy: “Cô Ba và Tỉnh ủy cứ yên lòng, dù chết, tôi không một lời khai báo!”. Đó là đơn vị vũ trang Thu Hà (Bộ đội Thu Hà) trưởng thành từ đấu tranh chính trị, phát triển lên thành đội nữ vũ trang, nữ pháo binh, mưu trí, dũng cảm luồn sâu làm công tác tuyên truyền và phối hợp với các lực lượng vũ trang khác đánh địch rất hiệu quả. Chúng tôi không thể kể xiết được danh sách cá nhân, tập thể phụ nữ Bến Tre đã lập nên những chiến công kỳ diệu trong những năm tháng ấy.

Với những thành tích, cống hiến, hy sinh lớn lao đó, phụ nữ đã góp phần cùng với Đảng bộ, quân và dân Bến Tre làm nên một Đồng khởi lịch sử, góp phần sáng tạo và hoàn chỉnh phương châm “2 chân, 3 mũi” trong đấu tranh cách mạng của Đảng, của dân tộc. Đảng và Nhà nước đã ghi công của phụ nữ Bến Tre anh hùng trong thành tích chung của toàn dân tộc. Trong số 98 đơn vị, 56 cá nhân anh hùng của Bến Tre, có đến 8 đồng chí là phụ nữ. Tiếng vang của Đội quân tóc dài đã vượt qua biên cương Tổ quốc. Năm tháng rồi sẽ qua đi, song lịch sử cách mạng dân tộc luôn dành những trang vàng trân trọng để ghi công của phụ nữ…

Sau khi có Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành trung ương Đảng và lệnh Đồng khởi của Tỉnh ủy, phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam nói chung và đồng bào Bến Tre nói riêng như cá gặp nước, nắng hạn gặp mưa rào, sự tích lũy căm thù và sức mạnh dồn nén từ lâu nay mới có dịp bùng nổ; người người xuống đường, nhà nhà tham gia phá thế kìm kẹp, phá ấp chiến lược, bao vây bứt rút, bức hàng đồn bót địch giải phóng xã, ấp.

 (Còn tiếp)

(*) tựa đề do tòa soạn đặt)

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN