Ủy hội sông Mê Công quốc tế họp với Nhóm tư vấn các Đối tác phát triển

26/12/2019 - 16:35

BDK.VN - Tiếp tục chương trình làm việc tại Phiên họp lần thứ 25, dưới sự chủ trì của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) Trần Hồng Hà - Chủ tịch Hội đồng Ủy hội sông Mê Công quốc tế năm 2018, Ủy hội sông Mê Công quốc tế đã tổ chức Phiên họp lần thứ 23 với Nhóm tư vấn các Đối tác phát triển.

Chủ tịch Ủy hội sông Mê Công quốc tế năm 2018 - Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà và các vị chủ trì Phiên họp.

Chủ tịch Ủy hội sông Mê Công quốc tế năm 2018 - Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà và các vị chủ trì Phiên họp.

Phát biểu khai mạc phiên họp, Chủ tịch Ủy hội sông Mê Công quốc tế năm 2018 - Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà chào mừng các quý vị đại biểu, đại diện của các Đối tác Phát triển, Đối tác Đối thoại và các quan sát viên đã tới Vịnh Hạ Long xinh đẹp, Di sản thiên nhiên thế giới của Việt Nam, để tham dự Phiên họp chung lần thứ 23 với Nhóm tư vấn các nhà tài trợ. Bộ trưởng mong muốn chính vẻ đẹp cảnh quan vịnh Hạ Long sẽ mang lại cho tất cả các đại biểu cảm giác dễ chịu và thoải mái, qua đó giúp thúc đẩy các cuộc thảo luận về tăng cường quan hệ đối tác vì tương lai của hợp tác Mê Công.

Thông tin đến các đối tác phát triển, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết: Ủy hội sông Mê Công quốc tế đã thực thi sứ mệnh của mình cho sự phát triển kinh tế - xã hội của các nước thành viên trong hơn hai thập kỷ nay. Trong suốt thời gian này, với sự đoàn kết và quyết tâm cao của các quốc gia thành viên, sự hỗ trợ quý báu và liên tục từ các Đối tác Phát triển, Đối tác Đối thoại và các bên liên quan khác, Ủy hội đã đạt được rất nhiều thành tựu quan trọng.

Trưởng đoàn Campuchia phát biểu.

Trưởng đoàn Campuchia phát biểu.

Năm nay, Ủy hội vui mừng nhận thấy, nỗ lực chung của Ủy hội và quan hệ đối tác với các đối tác của Ủy hội đã được nâng lên một tầm cao mới. “Trong khi các Đối tác Đối thoại đã đóng vai trò rất quan trọng trong quản lý tài nguyên nước trên phạm vi toàn lưu vực sông Mê Công thì các Đối tác Phát triển đã dành sự hỗ trợ rất lớn cả tài chính và kỹ thuật cho Ủy hội để thực thi các nhiệm vụ của Kế hoạch Chiến lược của Ủy hội” - Bộ trưởng Trần Hồng Hà nói.

Về các nhiệm vụ trọng tâm của Ủy hội, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết, Phiên họp sẽ nghe báo cáo tiến độ thực hiện Chiến lược phát triển lưu vực dựa trên quản lý tổng hợp tài nguyên nước giai đoạn 2016-2020, bao gồm cả các Kế hoạch hành động quốc gia và đưa ra các chỉ đạo chiến lược để tiếp tục thúc đẩy nhiệm vụ này.

Thứ trưởng Bộ TN&MT Lê Công Thành, Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban sông Mê Công Việt Nam - Trưởng đoàn Việt Nam phát biểu.

Thứ trưởng Bộ TN&MT Lê Công Thành, Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban sông Mê Công Việt Nam - Trưởng đoàn Việt Nam phát biểu.

Tiếp đến các đại biểu nghe báo cáo về tiến độ thực hiện các Thủ tục sử dụng nước của Ủy hội; kết quả sơ bộ đánh giá giữa kỳ thực hiện Kế hoạch Chiến lược 2016-2020; báo cáo về tình hình khí tượng thủy văn vùng Hạ lưu vực sông Mê Công và Kế hoạch Công tác năm 2019.

Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết, ông cũng rất vui mừng khi Ủy hội tiếp tục nhận được sự hỗ trợ quý báu của các Đối tác Phát triển và cuối buổi họp hôm nay sẽ có các Lễ ký kết tài trợ giữa Ủy hội và hai Đối tác Phát triển là EU và Đức để thực hiện Kế hoạch Chiến lược của Ủy hội. Bộ trưởng một lần nữa đánh giá cao sự phối hợp chặt chẽ của Ban Thư ký Ủy hội và Văn phòng Thường trực Ủy ban sông Mê Công Việt Nam trong quá trình chuẩn bị và tổ chức thành công Phiên họp này...

Phát biểu tại Phiên họp, ông Đặng Huy Hậu - Phó chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh cho biết: Quảng Ninh nhận thức sâu sắc rằng, việc tổ chức Phiên họp Hội đồng lần thứ 25 Ủy hội sông Mê Công quốc tế  tại thành phố Hạ Long không chỉ là cơ hội lớn để Quảng Ninh quảng bá và khẳng định thương hiệu du lịch của Việt Nam nói chung, của Quảng Ninh nói riêng đến bạn bè quốc tế, mà còn là cơ hội để Quảng Ninh học hỏi kinh nghiệm trong quản lý, sử dụng và khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên nước vì mục tiêu phát triển bền vững của tỉnh. Tại diễn đàn này, Quảng Ninh mong muốn và hy vọng các nước vùng Mê Công có những quyết sách đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân và sự phát triển chung của mỗi quốc gia với phương châm: “Quốc gia này phát triển không để ảnh hưởng đến quốc gia khác" - đây cũng là cơ sở tốt để xây dựng và phát triển khu vực.

Trưởng đoàn Thái Lan phát biểu

Trưởng đoàn Thái Lan phát biểu

Phát biểu tại Phiên họp, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Công Thành - Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban sông Mê Công Việt Nam - Trưởng đoàn Việt Nam tại Phiên họp cho biết: Năm qua, Hợp tác Mê Công tiếp tục phải đối mặt với những khó khăn thách thức của biến đổi khí hậu, phát triển kinh tế và sự gia tăng sử dụng nước nhanh chóng của các quốc gia trong lưu vực. Tuy nhiên, với tinh thần đoàn kết và ý chí quyết tâm cao độ, Ủy hội tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng.

Trưởng đoàn Lào phát biểu

Trưởng đoàn Lào phát biểu

Theo Thứ trưởng Lê Công Thành, một trong những thành tựu quan trọng mà Ủy hội đạt được trong năm 2018 là đã tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao lần thứ 3 Ủy hội sông Mê Công quốc tế với chủ đề “Tăng cường nỗ lực chung và mở rộng quan hệ đối tác nhằm đạt các mục tiêu phát triển bền vững trên lưu vực sông Mê Công”, tại Thành phố Siêm Riệp, Campuchia.

Cùng với thành công của Hội nghị Cấp cao lần thứ 3, Ủy hội đã tích cực triển khai thực hiện các nhiệm vụ của Kế hoạch Chiến lược 2016-2020, và đạt được những kết quả rất đáng khích lệ, bao gồm: Hoàn thành quá trình tái cấu trúc Ban Thư ký, giúp cho Ủy hội tiến gần hơn tới mô hình của một tổ chức lưu vực sông quốc tế, gọn nhẹ và hiệu quả hơn; Tăng cường thực hiện Chiến lược phát triển lưu vực dựa trên nguyên tắc quản lý tổng hợp tài nguyên nước và các Thủ tục sử dụng nước, đặc biệt trong thực hiện Thủ tục Thông báo Tham vấn trước và Thỏa thuận đối với các dự án thủy điện dòng chính sông Mê Công. Tăng cường khả năng tự chủ của Uỷ hội cả về tài chính và kỹ thuật và đẩy mạnh thực hiện kế hoạch chuyển giao các chức năng cơ bản về quản lý lưu vực sông cho các quốc gia thực hiện theo đúng lộ trình đã được thống nhất...

Thông qua biên bản Phiên họp Ủy hội lần thứ 25

Thông qua biên bản Phiên họp Ủy hội lần thứ 25

“Ngoài ra, tôi cũng vui mừng nhận thấy rằng các hoạt động hợp tác của Ủy hội hiện nay đã và đang được mở rộng hơn và gắn chặt hơn với các hoạt động liên quan ở các quốc gia thành viên. Ủy hội cũng tích cực và chủ động trong tăng cường và mở rộng mối quan hệ với cộng đồng các nhà tài trợ nhằm giúp Uỷ hội tranh thủ được thêm nguồn lực để thực hiện thành công Kế hoạch Chiến lược của Ủy hội” - Thứ trưởng Lê Công Thành nói.

Chia sẻ với các đại biểu về một số vấn đề liên quan đến đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) của Việt Nam, Thứ trưởng Lê Công Thành cho biết, ĐBSCL hiện đang chịu tác động rất lớn của các hoạt động phát triển trong lưu vực và ảnh hưởng không thể đoán trước và diễn ra nhanh hơn dự báo của biến đổi khí hậu, bao gồm gia tăng diện tích bị xâm nhập mặn, sụt lún đất và xói lở bờ sông. Các vấn đề này nếu không được giải quyết kịp thời sẽ ảnh hưởng rất lớn tới mục tiêu phát triển bền vững ĐBSCL và sinh kế của hàng triệu người dân sinh sống trong vùng.

Toàn cảnh phiên họp chiều 28-11.

Toàn cảnh phiên họp chiều 28-11.

Để đối phó với những thách thức khó khăn đó, Chính phủ Việt Nam gần đây đã thông qua Nghị quyết về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu. Nghị quyết đã đưa ra nhiều giải pháp toàn diện, bao gồm xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu, hình thành các tiểu vùng sinh thái làm định hướng phát triển kinh tế, nông nghiệp và cơ sở hạ tầng, tăng cường hợp tác vùng để đảm bảo phát triển bền vững tài nguyên nước sông Mê Công và các tài nguyên khác.

“Các giải pháp cũng bao gồm công tác tăng cường các hoạt động kết nối với Ủy hội sông Mê Công quốc tế về mạng lưới quan trắc, thu thập và trao đổi thông tin số liệu… Về vấn đề này, tôi đề nghị các quốc gia thành viên và các đối tác phát triển của Ủy hội tiếp tục phối hợp và hỗ trợ Việt Nam để đạt được các mục tiêu của Nghị quyết nêu trên” - Thứ trưởng Lê Công Thành nói.

Thay mặt cho Ủy ban sông Mê Công Việt Nam, Thứ trưởng Lê Công Thành đề nghị trong năm tới, Ủy hội cần triển khai thực hiện các hoạt động ưu tiên:

Thứ nhất, tiếp tục tăng cường mạng lưới các trạm quan trắc hiện nay, đặc biệt cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng mạng lưới quan trắc chung về t20ác động của các công trình thủy điện dòng chính sông Mê Công và chia sẻ các thông tin số liệu cho các quốc gia thành viên.

Thứ hai, tích cực phổ biến và lồng ghép các kết quả của Ủy hội, trong đó có kết quả của Nghiên cứu chung của Uỷ hội về quản lý và phát triển bền vững sông Mê Công, chiến lược và chương trình hành động hợp tác vùng vào chiến lược và chương trình hành động quốc gia.

Thứ ba, tiếp tục tìm kiếm các cơ hội mở rộng hợp tác với các Đối tác đối thoại và các Đối tác phát triển, các sáng kiến vùng và quốc tế, các tổ chức có liên quan nhằm huy động nguồn lực thực hiện thắng lợi Kế hoạch Chiến lược giai đoạn 2016-2020.

Đại diện Ủy hội Ký biên bản tài trợ với các đối tác phát triển

Đại diện Ủy hội Ký biên bản tài trợ với các đối tác phát triển

Cũng như các thành viên khác của Ủy hội, Thứ trưởng Lê Công Thành đã chuyển tới cộng đồng các nhà tài trợ, các đối tác phát triển lời cảm ơn chân thành nhất vì những hỗ trợ quý báu, kịp thời và liên tục cho Ủy hội nhằm đạt được các mục tiêu của Kế hoạch Chiến lược 2016-2020.

“Mặc dù Ủy hội đang hướng tới mục tiêu tự chủ về tài chính vào năm 2030, nhưng trong thời gian tới sự hỗ trợ của các Đối tác Phát triển vẫn đóng vai trò rất quan trọng đối với các hoạt động của Ủy hội. Vì vậy, tôi xin khẳng định lại cam kết của chúng tôi trong việc sử dụng hiệu quả các nguồn tài trợ của các Đối tác phát triển nhằm thực hiện thành công các mục tiêu của khu vực và của quốc gia. Tôi cũng rất vui mừng về những kết quả hợp tác đã đạt được trong thời gian qua giữa Ủy hội và các Đối tác Đối thoại. Tôi mong rằng sự hợp tác này sẽ tiếp tục được tăng cường và mở rộng không chỉ thông qua kênh đối thoại hiện nay mà còn thông qua các Cơ chế hợp tác vùng khác như Cơ chế Hợp tác Mê Công - Lan Thương” - Thứ trưởng Lê Công Thành nhấn mạnh. 

Tại phiên họp chiều 28-11-2018, các đại biểu đã nghe báo cáo về tiến độ thực hiện Tuyên bố chung của Hội nghị Cấp cao lần thứ 3 Ủy hội sông Mê Công quốc tế được tổ chức vào đầu năm 2018 vừa qua tại Thành phố Siêm Riệp, Campuchia. Trên cơ sở đó, Hội đồng đã thảo luận và đưa ra các chỉ đạo để Ban Thư ký thúc đẩy hơn nữa tiến độ thực hiện các nhiệm vụ ưu tiên đã được đề ra trong Tuyên bố Siêm Riệp.

Sau đó, các đại biểu cũng đã nghe báo cáo về tình hình hợp tác giữa Ủy hội và các Đối tác Đối thoại, Đối tác Phát triển và các bên liên quan khác, và chỉ đạo Ban Thư ký Ủy hội tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác hơn nữa.

Phát biểu tại phiên họp, các đại biểu đại diện cho các đoàn Lào, Campuchia và Thái Lan đều đánh giá cao vai trò Chủ tịch Ủy hội sông Mê Công quốc tế năm 2018 của Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà. Các đại biểu cũng nghe báo cáo tiến độ thực hiện Chiến lược phát triển lưu vực 2016 - 2020 bao gồm cả Kế hoạch quốc gia; Báo cáo tiến độ thực hiện các Thủ tục sử dụng nước của Ủy hội và Diễn đàn chung thực hiện các Thủ tục; Báo cáo kết quả sơ bộ Đánh giá giữa kỳ thực hiện Kế hoạch Chiến lược của Ủy hội sông Mê Công quốc tế và Giới thiệu Kế hoạch công tác năm 2019 của Ủy hội.

Phiên họp cũng đã thông báo về thời gian và địa điểm thực hiện Phiên họp lần thứ 26 Hội đồng Ủy hội sông Mê Công quốc tế và Phiên họp lần thứ 24 Nhóm tư vấn các đối tác phát triển sẽ được tổ chức ở Campuchia vào tháng 11-2019.

Các vị chủ trì Phiên họp chụp hình lưu niệm với đại diện các đối tác phát triển

Các vị chủ trì Phiên họp chụp hình lưu niệm với đại diện các đối tác phát triển

Phát biểu bế mạc Phiên họp Hội đồng lần thứ 25 và Phiên chung lần thứ 23 của Hội đồng Uỷ hội với Nhóm tư vấn các đối tác phát triển, Bộ trưởng Trần Hồng Hà bày tỏ lời cảm ơn chân thành và sự đánh giá cao của tôi tới tất cả các quý vị đại biểu vì nhữngý kiến đóng góp và các chỉ đạo chiến lược, làm nên thành công của Phiên họp này.

Bộ trưởng cho biết, vui mừng với những thành tựu đã đạt được trong thời gian qua, Hội đồng cũng tiếp tục đưa ra những chỉ đạo chiến lược về một số vấn đề quan trọng nhằm giúp Ủy hội đạt được kết quả tốt hơn nữa trong thời gian tới. Theo Bộ trưởng, Hội đồng Ủy hội sông Mê Công quốc tế hoan nghênh việc mở rộng quan hệ và tăng cường nỗ lực chung với các đối tác của Ủy hội, qua đó mở đường cho sự gắn kết chặt chẽ hơn với các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế khác.

Hội đồng Ủy hội sông Mê Công quốc tế cũng rất vui mừng khi tiếp tục nhận được hỗ trợ tài chính từ các Đối tác Phát triển của Uỷ hội, những người đã luôn luôn hỗ trợ và tin tưởng chúng ta trong suốt chặng đường đã qua, và chúng ta vô cùng trân trọng và biết ơn các Đối tác Phát triển về những điều đó.

“Với việc chúng ta đã phê duyệt kết quả tuyển chọn CEO người Campuchia là CEO ven sông thứ hai của Ban Thư ký Uỷ hội, tôi muốn nhân cơ hội này để ghi nhận nhiệm kỳ của CEO ven sông đầu tiên trong lịch sử hợp tác Mê Công, đặc biệt trong bối cảnh có rất nhiều áp lực từ việc tái cơ cấu tổ chức; giảm hỗ trợ từ các đối tác phát triển; cũng như các vấn đề phức tạp khác nảy sinh trong lưu vực, từ biến đổi khí hậu đến nhu cầu nước và đề xuất công trình dòng chính…” - Bộ trưởng Trần Hồng Hà nói.

Trước khi kết thúc, Bộ trưởng Trần Hồng Hà - Chủ tịch Ủy hội Mê Công quốc tế năm 2018 bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến các Uỷ viên Hội đồng vì sự ủng hộ hết lòng và góp ý chân tình, đến Ủy ban Liên hợp và Ban thư ký Uỷ hội vì sự hỗ trợ tuyệt vời đối với ông trong suốt nhiệm kỳ Chủ tịch Hội đồng năm 2018.

Trước khi bế mạc Phiên họp chiều 28-11-2018, Bộ trưởng Trần Hồng Hà, Chủ tịch Ủy ban sông Mê Công Việt Nam đã bàn giao chức Chủ tịch Ủy hội sông Mê Công quốc tế năm 2019 cho ngài Lim Kean Hor - Bộ trưởng Bộ Tài nguyên nước và Khí tượng Campuchia, Chủ tịch Ủy ban sông Mê Công quốc gia Campuchia.

Bộ trưởng Trần Hồng Hà chúc Bộ trưởng Tài nguyên nước và Khí tượng Campuchia Lim Kean Hor thành công trong nhiệm kỳ của mình và thành công trong vai trò Chủ tịch Ủy hội sông Mê Công quốc tế năm 2019.

“Tôi xin đảm bảo với Ngài về sự hỗ trợ hết sức và hợp tác không ngừng nghỉ của tôi trong suốt thời gian Ngài thực hiện nhiệm vụ của mình. Chúc tất cả các quý vị có một thời gian đáng nhớ tại Vịnh Hạ Long và trở về nhà bình an” - Bộ trưởng Trần Hồng Hà nói.

Liên quan đến ý kiến mà các đại biểu đã hể hiện như đã nêu trên, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã khẳng định quan điểm nhất quán, thể hiện rất rõ trong Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu.

Nhiều nông dân vật lộn giữa mùa hạn mặn. Ảnh: TTXVN

Nhiều nông dân vật lộn giữa mùa hạn mặn. Ảnh: TTXVN

Theo đó, đồng bằng sông Cửu Long là vùng đất rộng lớn chiếm 12% diện tích, 19% dân số cả nước, mạng lưới sông, kênh, rạch dày đặc; có lợi thế về phát triển nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm, du lịch, năng lượng tái tạo; là trung tâm sản xuất nông nghiệp lớn nhất của Việt Nam. 

Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách, triển khai nhiều giải pháp để phát huy tiềm năng, lợi thế, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội đồng bằng sông Cửu Long. Vùng đất này đã có sự phát triển rõ rệt, đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Cơ sở hạ tầng từng bước được đầu tư đồng bộ, đảm bảo phục vụ tốt hơn cho các hoạt động kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân không ngừng cải thiện; đã khẳng định được vị thế là trung tâm sản xuất, xuất khẩu lúa gạo, thuỷ hải sản và cây ăn quả hàng đầu của cả nước, góp phần bảo đảm an ninh lương thực, mang lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể phục vụ phát triển đất nước. 

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, đồng bằng sông Cửu Long có nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng đang đối mặt với nhiều thách thức do đây là vùng đất mẫn cảm với thay đổi của tự nhiên. Biến đổi khí hậu và nước biển dâng diễn ra nhanh hơn dự báo, gây ra nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan, ảnh hưởng đến sinh kế và đời sống của người dân. Việc khai thác tài nguyên nước trên thượng nguồn châu thổ, đặc biệt là xây dựng đập thủy điện đã làm thay đổi dòng chảy, giảm lượng phù sa, suy giảm nguồn lợi thuỷ sản, xâm nhập mặn sâu vào nội vùng, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội của vùng. 

Trong khi đó, công tác quản lý nhà nước trong một số lĩnh vực, phân cấp giữa địa phương và Trung ương còn chồng chéo, thiếu sự phối hợp chặt chẽ; các cơ chế điều phối phát triển vùng Đồng bằng sông Cửu Long chưa phát huy tác dụng. 

Thực tế đó đòi hỏi có tầm nhìn mới, định hướng chiến lược, các giải pháp toàn diện, căn cơ, đồng bộ, huy động tối đa các nguồn lực và sự tham gia của các thành phần kinh tế để phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long. 

Mục tiêu đến năm 2050, đồng bằng sông Cửu Long trở thành vùng có trình độ phát triển khá so với cả nước, có trình độ tổ chức xã hội tiên tiến. Thu nhập bình quân đầu người đạt cao hơn trung bình cả nước, sinh kế của người dân được bảo đảm. Tỷ trọng nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao chiếm trên 80%, độ che phủ rừng đạt trên 9% (so với 4,3% hiện nay). Các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng được bảo tồn và phát triển. Mạng lưới kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được xây dựng đồng bộ, hiện đại. Hệ thống đô thị hiện đại được xây dựng và phân bố hợp lý tại các tiểu vùng. Hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy được phát triển đồng bộ, kết nối trong vùng, liên vùng và phải bảo đảm kết hợp hài hòa, thống nhất, bổ trợ và không xung đột với hệ thống thủy lợi, đê điều. Hạ tầng thủy lợi được xây dựng đồng bộ phù hợp với mô hình chuyển đổi sản xuất nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu tại các tiểu vùng sinh thái, đồng thời phải có biện pháp hiệu quả phòng, chống, giảm nhẹ rủi ro thiên tai cho dân sinh và nền kinh tế khi có thiên tai xảy ra. Hạ tầng thông tin và truyền thông, mạng lưới cấp điện, cấp nước, thoát nước được xây dựng đồng bộ. Hệ thống các cơ sở văn hoá, giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế, thể dục, thể thao ở mức cao so với cả nước; kinh tế phát triển năng động và hiệu quả với cơ cấu kinh tế phù hợp. 

Đến năm 2100, đồng bằng sông Cửu Long phát triển bền vững, an toàn, thịnh vượng, trên cơ sở phát triển phù hợp nông nghiệp hàng hóa chất lượng cao, kết hợp với dịch vụ, du lịch sinh thái, công nghiệp, trọng tâm là công nghiệp chế biến, nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp. Hệ thống cơ sở hạ tầng được quy hoạch, phát triển đồng bộ, hiện đại theo hướng chủ động, thông minh, thích ứng biển đổi khí hậu, đảm bảo an toàn trước thiên tai. Tài nguyên thiên nhiên được sử dụng hợp lý. Đa dạng sinh học và truyền thống văn hóa lịch sử được duy trì và tôn tạo, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao. 
Quan điểm chỉ đạo là kiến tạo phát triển bền vững, thịnh vượng, trên cơ sở chủ động thích ứng, phát huy tiềm năng, thế mạnh, chuyển hoá những thách thức thành cơ hội để phát triển, bảo đảm được cuộc sống ổn định, khá giả của người dân cũng như bảo tồn được những giá trị văn hoá truyền thống đặc sắc của đồng bằng sông Cửu Long. Chú trọng bảo vệ đất, nước và đặc biệt là con người. 

Thay đổi tư duy phát triển, chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp thuần túy, chủ yếu là sản xuất lúa sang tư duy phát triển kinh tế nông nghiệp đa dạng, đáp ứng nhu cầu của thị trường, chuyển từ phát triển theo số lượng sang chất lượng. Tôn trọng quy luật tự nhiên, phù hợp với điều kiện thực tế, tránh can thiệp thô bạo vào tự nhiên. Chọn mô hình thích ứng theo tự nhiên, thân thiện với môi trường và phát triển bền vững với phương châm chủ động sống chung với lũ, ngập, nước lợ, nước mặn. Phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long vì lợi ích chung của đất nước, Tiểu vùng sông Mê Công và quốc tế và là sự nghiệp của toàn dân, khuyến khích, huy động tất cả các tầng lớp, thành phần xã hội, các đối tác quốc tế và doanh nghiệp tham gia vào quá trình phát triển. 

Về chủ trương và định hướng chiến lược, mô hình phát triển đồng bằng sông Cửu Long phải lấy con người làm trung tâm, phục vụ người dân, giảm khoảng cách giàu nghèo; chú trọng về chất lượng hơn số lượng, chuyển từ chiều rộng sang chiều sâu, tiếp cận chủ động, linh hoạt trong bối cảnh biến đổi khí hậu diễn ra nhanh, ngày càng cực đoan và tác động của việc khai thác, sử dụng nguồn nước với quy mô lớn, cường độ cao trên thượng nguồn sông Mê Công. 

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc có Bài viết "Mê Công: Dòng sông hợp tác và phát triển",  của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã thể hiện rõ ràng quan điểm của Chính phủ Việt Nam về dòng sông Mê Công:

Tiếp theo thành công của Hội nghị APEC 2017, bước vào năm mới 2018, chúng ta vinh dự là nước chủ nhà tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS) lần thứ 6 với sự tham gia của Lãnh đạo 6 nước Cam-pu-chia, Trung Quốc, Lào, Mi-an-ma, Thái Lan, Việt Nam và Hội nghị cấp cao về Tam giác phát triển Campuchia, Lào, Việt Nam (CLV) lần thứ 10, tổ chức tại Hà Nội trong các ngày 30-31/3/2018. Đây là 2 sự kiện quốc tế đa phương quan trọng hàng đầu của nước ta trong năm nay.

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Việt Nam đã đưa ra Sáng kiến lần đầu tiên tổ chức Diễn đàn Thượng đỉnh kinh doanh GMS. Sáng kiến này đã nhận được sự đồng thuận của các nước thành viên GMS, sự ủng hộ của các đối tác Ngân hàng phát triển Châu Á ADB, Ngân hàng Thế giới WB, ASEAN... Điều rất vui mừng là sự hưởng ứng rộng rãi của cộng đồng doanh nghiệp với quy mô hơn 2.000 doanh nhân trong nước và quốc tế đăng ký tham dự (đây là quy mô lớn tương đương với Hội nghị Thượng đỉnh kinh doanh APEC năm 2017). Điều này thể hiện sự hứng khởi kinh doanh, niềm tin của các doanh nhân, nhà đầu tư vào các chính sách đổi mới, cởi mở, thông thoáng của các Chính phủ và các cơ hội kinh doanh thuận lợi đang mở ra trong khu vực GMS, CLV rất giàu tiềm năng phát triển trong bối cảnh Châu Á đang nổi lên là một động lực tăng trưởng của toàn cầu trong thế kỷ 21.

Hợp tác Mê Công – thúc đẩy kết nối khu vực

Khu vực Mê Công bao gồm 5 quốc gia gắn kết bởi dòng sông Mê Công là Việt Nam, Cam-pu-chia, Lào, Mi-an-ma và Thái Lan. Từ đầu những năm 1990 đến nay, trong xu thế khu vực hóa và trước nhu cầu đẩy mạnh liên kết kinh tế, hợp tác tại Mê Công đã có sự chuyển mình to lớn. Nếu trong giai đoạn đầu, hợp tác Mê Công chỉ tập trung trong nội bộ các nước ven sông thì đến nay mở rộng thêm nhiều cơ chế hợp tác giữa các nước Mê Công với các đối tác lớn, trong đó có Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ và Hàn Quốc,… đã được thành lập. Sự quan tâm của cộng đồng quốc tế và các đối tác phát triển xuất phát từ vị trí chiến lược cùng tiềm năng phát triển mạnh mẽ của khu vực này.

Chương trình Hợp tác Kinh tế Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS) với sự hỗ trợ của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) là cơ chế đầu tiên được thành lập ở khu vực vào năm 1992 bao gồm năm nước Mê Công và Trung Quốc (với hai tỉnh đại diện là Vân Nam và Quảng Tây)1 có mục tiêu thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác phát triển kinh tế cùng có lợi giữa các nước, đưa khu vực Mê Công trở thành vùng phát triển nhanh và thịnh vượng ở Đông Nam Á.

Một số cơ chế hợp tác khác cũng đã được thành lập như Hợp tác khu vực Tam giác Phát triển (TGPT) Cam-pu-chia – Lào – Việt Nam (CLV), Hợp tác bốn nước Cam-pu-chia – Lào – Mi-an-ma – Việt Nam (CLMV) và Chiến lược hợp tác kinh tế A-yê-ya-oa-đi – Chao Ph-ra-ya – Mê Công (ACMECS) giữa Thái Lan, Mi-an-ma, Cam-pu-chia, Lào, Việt Nam, nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển, hỗ trợ các nước Mê Công hội nhập hơn vào kinh tế khu vực và tăng cường hợp tác trong ứng phó các thách thức chung. Trong các cơ chế này, hợp tác CLV được thành lập vào năm 1999 với mục tiêu tăng cường đoàn kết và hợp tác; đảm bảo an ninh, ổn định chính trị; xoá đói giảm nghèo và phát triển kinh tế - xã hội của ba nước Cam-pu-chia, Lào, Việt Nam.

Các cơ chế hợp tác Mê Công đã có đóng góp hết sức quan trọng đối với sự phát triển của khu vực. Các khuôn khổ hợp tác Mê Công, thực chất là cơ chế phối hợp chính sách, là diễn đàn để các nước Mê Công củng cố lòng tin, tăng cường đối thoại để cùng nhau xử lý các thách thức chung trên cơ sở hài hoà lợi ích các bên mà nỗ lực riêng lẻ của từng nước hoặc hợp tác song phương không thể giải quyết được. Bên cạnh đó, các cơ chế hợp tác Mê Công, thông qua các chương trình, dự án cụ thể, cũng đóng góp thiết thực cho kết nối khu vực, thúc đẩy tiến trình liên kết kinh tế của các nước Mê Công, thu hẹp khoảng cách phát triển và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.

Trong quá trình này, các đối tác phát triển đã đóng vai trò quan trọng. Trong khuôn khổ hợp tác GMS, các quốc gia và các đối tác phát triển đã huy động khoảng 21 tỷ USD cho các dự án phát triển kinh tế -xã hội tại sáu nước thành viên. Nhật Bản đã hỗ trợ các nước Mê Công khoảng 1.100 tỷ yên (khoảng 13 tỷ đô la Mỹ) giai đoạn 2009 – 2015, và đã giải ngân khoảng 2/3 khoản cam kết hỗ trợ 750 tỷ yên (khoảng 6,5 tỷ đô la Mỹ) cho giai đoạn 2016 – 2018. Hoa Kỳ đã tài trợ 50 triệu USD cho Sáng kiến Hạ nguồn Mê Công giai đoạn 2013 – 2015 và cam kết tài trợ 1,25 triệu USD để khởi động Chương trình Đối tác cơ sở hạ tầng bền vững (SIP) giai đoạn 2016-2018. Ấn Độ đóng góp thường niên 1 triệu USD vào Quỹ Dự án hiệu quả nhanh cho các nước CLMV và tiếp tục dành học bổng cho các nước Mê Công. Hàn Quốc cam kết đóng góp mỗi năm 1 triệu USD cho Quỹ hợp tác Mê Công – Hàn Quốc và dự kiến sẽ tăng lên 2 triệu đô la Mỹ trong thời gian tới. Vừa qua, Trung Quốc có kế hoạch sẽ đầu tư khoảng 10 tỷ đô la Mỹ cho tiểu vùng, nhất là các dự án kết nối giao thông tuyến Bắc – Nam. Trung Quốc cũng cam kết đóng góp 300 triệu đô la Mỹ cho Quỹ đặc biệt hợp tác Mê Công – Lan Thương cùng nhiều khoản vay ưu đãi và tín dụng bên mua.

Trong tổng thể chung, khu vực Mê Công là “không gian an ninh và phát triển” trực tiếp của Việt Nam. Bên cạnh việc góp phần tạo dựng môi trường hoà bình thuận lợi ở khu vực, qua đó, đóng góp cho sự ổn định và phát triển của Việt Nam, hợp tác Mê Công cũng đang triển khai tại Việt Nam với nhiều lợi ích cụ thể.

Thứ  nhất, các cơ chế hợp tác Mê Công là kênh quan trọng giúp Việt Nam thu hút được nguồn lực từ các đối tác phát triển phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong nước, góp phần đẩy mạnh tăng trưởng, liên kết vùng, xoá đói giảm nghèo, đặc biệt ở các khu vực biên giới. Tính đến tháng 12/2017, riêng các dự án hợp tác hướng đến mục tiêu kết nối trong khuôn khổ GMS tại Việt Nam có quy mô đạt khoảng 6 tỷ đô la (chiếm khoảng 30% tổng số các khoản huy động của GMS).

Những tên gọi quen thuộc như tuyến đường thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài, hầm đường bộ Hải Vân, dự án nâng cấp cảng Đà Nẵng, cầu quốc tế Mê Công thứ hai nối liền đường bộ từ Thái Lan – Lào – Việt Nam đi ra Biển Đông, Dự án Hành lang Côn Minh – Hải Phòng, Dự án đường cao tốc dài nhất Việt Nam Nội Bài – Lào Cai và rất nhiều chương trình, dự án khác mang lại lợi ích thiết thực cho người dân Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác Mê Công.

Thứ hai, hợp tác Mê Công thúc đẩy liên kết kinh tế giữa Việt Nam với các nước trong khu vực. Nhiều thoả thuận hợp tác, quy hoạch phát triển chung quan trọng đã được ký kết, góp phần thúc đẩy quan hệ thương mại và đầu tư giữa các nước thành viên. Các chương trình hợp tác văn hóa, xã hội cũng đã giúp thúc đẩy giao lưu nhân dân, tăng cường sự hiểu biết, tình cảm và sự gắn bó của người dân ven sông.

Thứ ba, việc tham gia các khuôn khổ hợp tác Mê Công giúp tạo thêm kênh đối thoại với các nước trong lưu vực sông Mê Công và thu hút sự quan tâm, hỗ trợ tài chính, kỹ thuật của các đối tác phát triển về quản lý và sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê Công. Bên cạnh kênh Uỷ hội sông Mê Công Quốc tế (MRC), Việt Nam cũng phối hợp cùng các nước triển khai hợp tác bảo vệ môi trường, an ninh nguồn nước tại các khuôn khổ hợp tác Mê Công khác.

Việt Nam – thành viên chủ động và tích cực

Nhận thức rõ tầm quan trọng của khu vực Mê Công, Việt Nam đã và đang tham gia chủ động và tích cực vào tất cả các khuôn khổ hợp tác Mê Công, cùng với các thành viên xây dựng cơ chế làm việc hiệu quả, phát huy thế mạnh của các bên tham gia và đáp ứng nhu cầu phát triển của khu vực. Có thể kể đến những đóng góp nổi bật của Việt Nam là:

Thứ nhất, trong lĩnh vực thương mại và đầu tư, Việt Nam đã tham gia các hoạt động thuận lợi hóa thương mại và đầu tư trong khuôn khổ GMS, bao gồm Khung chiến lược hành động về thương mại và đầu tư (SFA-TFI) với nội dung chính là đơn giản hóa thủ tục hải quan, hài hòa quy định về tiêu chuẩn vệ sinh nhằm giảm thời gian kiểm tra tại các cửa khẩu, cải thiện năng lực cung cấp dịch vụ hậu cần (logistics) và đơn giản hóa thủ tục cấp visa cho thương nhân trong khu vực.

Bên cạnh hợp tác phát triển hạ tầng cứng, Việt Nam cũng cùng các nước tiểu vùng Mê Công đã hoàn thành ký kết tất cả các nghị định thư, phụ lục của Hiệp định GMS nhằm tạo thuận lợi cho việc vận chuyển người, hàng hóa qua biên giới (Hiệp định CBTA-GMS); đồng thời đã ký bản ghi nhớ về triển khai “thu hoạch sớm” Hiệp định CBTA – GMS. Mô hình kiểm tra “một cửa, một điểm dừng” đã được triển khai tại cặp cửa khẩu Lao Bảo – Đen-sa-vẳn giữa Việt Nam và Lào từ năm 2015. Hiện Việt Nam cũng đang đàm phán thực hiện thí điểm mô hình tại cặp cửa khẩu Mộc Bài – Bà Vẹt với Cam-pu-chia.

Thứ hai, trong hoạt động hợp tác về môi trường và quản lý nguồn nước trong các khuôn khổ hợp tác Mê Công, Việt Nam đã tích cực cùng với các nước thành viên MRC đàm phán và hoàn thành các quy định và thủ tục về chia sẻ số liệu, giám sát sử dụng nước hiện tại, thông báo và trao đổi ý kiến trước về sử dụng nước, duy trì dòng chảy trên dòng chính sông Mê Công để cụ thể hóa Hiệp định Mê Công và trách nhiệm của các nước thành viên trong việc bảo vệ nguồn nước sông Mê Công.

Trong hợp tác ACMECS, Việt Nam là nước đầu tiên đưa ra ý tưởng về việc thành lập nhóm công tác về môi trường, soạn thảo Kế hoạch hành động và  đồng chủ trì nhóm công tác. Việt Nam cũng đóng vai trò chủ trì hợp tác về môi trường trong hợp tác Hạ nguồn Mê Công – Hoa Kỳ; tham gia tích cực vào sáng kiến “Một thập kỷ Mê Công Xanh” trong hợp tác Mê Công - Nhật Bản. Việt Nam cũng tham gia tích cực vào hợp tác nguồn nước trong cơ chế Mê Công - Lan Thương. Trong GMS, Việt Nam đã tích cực tham gia xây dựng Khuôn khổ chiến lược bảo vệ môi trường GMS; xây dựng hệ thống thông tin và giám sát môi trường; giảm đói nghèo và quản lý môi trường ở các vùng sâu, vùng xa, rừng đầu nguồn; quản lý, bảo vệ đất ngập mặn của hạ lưu sông Mê Công và tăng cường thể chế, đào tạo về bảo vệ môi trường.

Thứ  ba, trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, Việt Nam đã cử hàng trăm lượt cán bộ tham dự các chương trình học bổng, đào tạo trong các cơ chế hợp tác tại tiểu vùng trên nhiều lĩnh vực như quản lý mạng lưới cơ sở hạ tầng, thiết kế và thẩm định dự án, phát triển chính sách thương mại và quản lý giáo dục, lãnh đạo trong phát triển, v.v…Việt Nam cũng tham gia xây dựng Khung chiến lược và Kế hoạch hành động Phát triển nguồn nhân lực GMS giai đoạn 2009-2012 và giai đoạn 2013-2017, với mục tiêu thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực một cách bền vững, hỗ trợ triển khai các sáng kiến vùng về hợp tác nguồn nhân lực và xử lý các vấn đề xuyên biên giới về nhân lực giữa các nước GMS.

Ngoài ra, Việt Nam đã và đang tiếp nhận nhiều cán bộ, sinh viên từ Lào và Cam-pu-chia sang học tại trường Đại học Tây Nguyên và hỗ trợ xây dựng trường phổ thông nội trú tại tỉnh Sê-kông (Lào) và Ra-ta-na-ki-ri (Cam-pu-chia). Trong cơ chế CLMV, Việt Nam đã xây dựng quỹ học bổng CLMV nhằm cung cấp hàng năm hàng trăm suất học bổng cho ba nước Cam-pu-chia, Lào, Mi-an-ma. Đây là một trong 58 dự án điểm đầu tiên được thực hiện và cũng là một trong những kết quả nổi bật của cơ chế hợp tác CLMV.

Thứ tư, không chỉ thụ hưởng, Việt Nam có nhiều đóng góp cho hợp tác phát triển tiểu vùng Mê Công dưới nhiều hình thức như tổ chức các hội nghị/hội thảo, xây dựng các văn bản quan trọng, thúc đẩy các sáng kiến, hỗ trợ tài chính. Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao ACMECS 7 và CLMV 8 (tháng 10/2016), Hội nghị Cấp cao Mê Công – Nhật Bản lần thứ 2, Hội nghị Bộ trưởng Mê Công – Nhật Bản lần thứ 3 và Hội nghị Bộ trưởng Mê Công  - Hoa Kỳ lần 2 (2010) và đặc biệt là Hội nghị Thượng đỉnh GMS6 và Hội nghị Cấp cao CLV 10 sẽ diễn ra tại Hà Nội từ ngày 29-31/3/2018 sắp tới.

Trong hợp tác Khu vực Tam giác phát triển CLV, Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ cùng các nước thực hiện rà soát và xây dựng Quy hoạch lại Tam giác phát triển đến 2020, xây dựng trang mạng riêng của TGPT bằng bốn thứ tiếng (Việt, Anh, Lào và Khơ-me); hỗ trợ Lào và Cam-pu-chia trong việc xây dựng một số tuyến đường chính liên kết các tỉnh biên giới, xây dựng chợ biên giới, trạm liên kiểm. Các doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư vào khu vực Tam giác phát triển của Lào và Campuchia hơn 100 dự án với tổng vốn đăng ký là hơn 3,8 tỷ USD, với phương châm hợp tác là  kết hợp vốn, kỹ thuật và thị trường của Việt Nam với lao động và tiềm năng đất đai của Lào và Cam-pu-chia.

Các cơ chế hợp tác tại khu vực Mê Công có ý nghĩa quan trọng và phù hợp với các ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Với thế và lực được nâng cao cùng kinh nghiệm phát triển và hội nhập quốc tế được tích luỹ gần 30 năm qua, Việt Nam có khả năng và điều kiện tốt hơn khi tham gia hợp tác Mê Công, qua đó, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước và đóng góp cho hòa bình, hợp tác, phát triển ở khu vực.

M. T (tổng hợp)

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN