Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc về “Xây dựng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thành thung lũng của sáng tạo với nền nông nghiệp đa chức năng, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp, thích ứng với môi trường nhiễm mặn, khan hiếm nước ngọt và phù sa”, vấn đề đặt ra cho ĐBSCL là tăng cường liên kết giữa các tỉnh trong vùng từ nhiệm vụ khoa học và công nghệ (KH&CN) tạo ra mạng lưới sản xuất, kinh doanh trong chuỗi cung ứng khu vực, cả nước và toàn cầu.
Chưa có sự liên kết nội vùng và liên vùng
Xác định tầm quan trọng của liên kết vùng và nội vùng, Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương đã ban hành nhiều văn bản về liên kết phát triển vùng ĐBSCL. Tuy nhiên đến nay, kết quả thực hiện việc thí điểm liên kết vùng ĐBSCL về xây dựng, ban hành bộ tiêu chí xác định danh mục các chương trình, dự án liên kết vùng; xây dựng 3 mô hình chuỗi giá trị đối với các sản phẩm mặt hàng nông nghiệp chủ lực của vùng gắn với xây dựng vùng chuyên canh, vùng nguyên liệu, liên kết với doanh nghiệp sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm; cơ chế đặc thù thực hiện nhiệm vụ KH&CN phục vụ xây dựng nông thôn mới vùng ĐBSCL… còn chậm tiến độ.
Đa số các tỉnh vùng ĐBSCL có quy hoạch phát triển KH&CN nhưng chưa phù hợp với quy hoạch kinh tế - xã hội (KT-XH) của vùng. Kế hoạch phát triển KT-XH trung hạn và dài hạn của các tỉnh chưa đưa nội dung liên kết nội vùng và liên vùng nên không có sự gắn kết với nhau dựa trên lợi thế so sánh và sự phân công phối hợp giữa các tỉnh trong nội vùng.
Trước nhu cầu xã hội, một số tỉnh đã và đang ký kết liên kết và được cho là hướng đi tích cực nhưng thiếu cơ sở khoa học vì chưa dựa vào phân định tiểu vùng được căn cứ vào đặc điểm địa lý lãnh thổ, đặc thù trong vùng, tác động của biến đổi khí hậu, các định hướng chiến lược phát triển chính của quốc gia và mô hình phát triển vùng.
Liên kết các tỉnh trong vùng còn rời rạc, manh mún, trùng dẫm, chưa có đề án chung liên kết vùng dành cho 13 tỉnh, thành. Một số tỉnh có đề án liên kết tiểu vùng nhưng chưa phát huy được hiệu quả như mong đợi. Hầu như không thấy đề cập đến nhiệm vụ KH&CN trong quá trình thực thi liên kết.
Việc đề xuất, thực hiện nhiệm vụ KH&CN, ngay cả chương trình KH&CN phục vụ phát triển bền vững vùng Tây Nam Bộ cũng chưa có sự liên kết, phối hợp chặt chẽ giữa các tỉnh trong vùng với nhau do bị chi phối bởi lợi ích cục bộ của từng địa phương.
Mặt khác, các vùng kinh tế trọng điểm, các tỉnh có vị thế trong vùng chưa tạo ra động lực, trở thành cực tăng trưởng KT-XH và KH&CN của vùng. Cơ chế và nguồn lực đầu tư tài chính cho liên kết tiểu vùng và vùng còn thiếu nên các đề án liên kết đã ký kết ít được thực thi.
Đưa nhiệm vụ KH&CN vào các đề án liên kết
Để khắc phục các tồn tại trên, trước mắt, các tỉnh trong vùng phối hợp chặt chẽ, đề xuất các nhiệm vụ KH&CN tham gia thực hiện chương trình Tây Nam Bộ 2014 - 2019. Bộ KH&CN kịp thời công bố, bàn giao các kết quả nghiên cứu của chương trình Tây Nam Bộ cho các địa phương sử dụng; đồng thời, đôn đốc các đồng chủ nhiệm thực hiện đúng tiến độ.
Các tỉnh trong vùng liên kết xây dựng quy hoạch vùng ĐBSCL, quy hoạch phát triển KT-XH của tỉnh theo Luật Quy hoạch năm 2017. Ngoài ra, thường xuyên theo dõi, kịp thời phản ánh các nội dung có liên quan đến các quy hoạch ngành quốc gia; quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành về cho cấp có thẩm quyền trước khi ban hành.
Việc phân chia vùng ĐBSCL ra thành các tiểu vùng để tổ chức thực hiện các nhiệm vụ liên kết giữa các tỉnh với nhau nên tuân thủ Quyết định số 68 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt điều chỉnh quy hoạch xây dựng vùng ĐBSCL.
Trên cơ sở phân định các tiểu vùng, các tỉnh trong tiểu vùng nên cùng xây dựng các đề án liên kết; xác định rõ các chuỗi giá trị gia tăng của sản phẩm trong từng ngành hàng đặc thù của từng tỉnh, tiểu vùng; phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của từng địa phương, các tiểu vùng. Đưa nội dung thực hiện nhiệm vụ KH&CN vào trong các đề án liên kết, tham gia thực hiện Đề án Tổng thể triển khai, áp dụng và quản lý tem truy suất nguồn gốc; Đề án Phát triển hệ tri thức Việt số hóa...
Các tỉnh trong vùng thực hiện việc đánh giá các tổ chức KH&CN phục vụ công tác quy hoạch, phát triển KH&CN; làm cơ sở lựa chọn tổ chức KH&CN đứng đầu, điều phối thực hiện nhiệm vụ liên kết tiểu vùng và vùng. Đồng thời, mỗi tỉnh sẽ tiến hành điều tra, xây dựng và công bố danh mục các doanh nghiệp KH&CN dẫn đầu để tiếp nhận, ứng dụng kết quả nghiên cứu KH&CN vừa là khâu kết nối quan trọng trong chuỗi giá trị gia tăng các sản phẩm của vùng.
Đề nghị Bộ KH&CN hỗ trợ thực hiện Đề án KH&CN thí điểm xây dựng Quỹ Phát triển KH&CN vùng ĐBSCL trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Sau khi chương trình KH&CN Tây Nam Bộ giai đoạn 2014 - 2019 kết thúc, Bộ KH&CN trình Thủ tướng thực hiện chương trình giai đoạn 2019 - 2024 do Trường Đại học Cần Thơ đồng chủ trì.
Với những nội dung, giải pháp nêu trên, nhiệm vụ KH&CN mới có thể là động lực mạnh mẽ để phát triển vùng ĐBSCL trở thành vùng trọng điểm quốc gia về sản xuất nông nghiệp và đánh bắt, nuôi trồng thủy sản; phát triển mạnh kinh tế biển, du lịch sinh thái cảnh quan sông nước.
Đặng Văn Cử