Mô hình nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao của hộ nông dân Lê Văn Sấm, xã Thạnh Hải, huyện Thạnh Phú. Ảnh: Chương Đài
Nói “không” với hóa chất
Tại mảnh vườn rộng khoảng 1ha với hơn 400 gốc bưởi da xanh của ông Vương Thành Công ở xã An Hiệp, huyện Châu Thành, thuốc hóa học được loại bỏ hoàn toàn, thay vào đó là những bầy kiến vàng đóng vai trò tiêu diệt các loài sâu rầy, dịch hại. Không chỉ vậy, ông Công còn quan tâm đến sức khỏe của đất, không bón các loại phân bón vô cơ, thay vào đó ông ủ phân từ các phụ phẩm nông nghiệp để phục vụ sản xuất, mang lại giá trị kinh tế cao và góp phần bảo vệ môi trường.
Ông Công chia sẻ, bón phân hữu cơ đất sẽ tơi xốp, bộ rễ cây khỏe, từ đó, hút chất dinh dưỡng nuôi cây tốt. Khi sử dụng phân hữu cơ, tuổi thọ cây trồng kéo dài, trái tốt, ngon - ngọt, chi phí giảm so với phân vô cơ.
Theo ông Công, thay vì sản xuất chủ yếu tập trung vào sản lượng như trước đây, hiện nay nông dân đã ý thức hơn trong việc thay đổi phương thức sản xuất tập trung vào chất lượng nông sản theo hướng “sản xuất sạch - nông nghiệp xanh”. Chính điều này vừa mang đến sự an toàn cho người sản xuất, bảo vệ môi trường, đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng và từng bước “gõ cửa” các thị trường khó tính.
Tiếp chúng tôi tại vườn dừa rộng hơn 2ha ở xã Thới Thạnh, huyện Thạnh Phú, nông dân Phạm Văn Hà cho biết: Trước đây, 2ha dừa của gia đình thu hoạch trái bán với giá cả bấp bênh do thương lái quyết định và thu mua không ổn định. Khi Hợp tác xã Nông nghiệp Thới Thạnh thành lập, sản xuất dừa theo hướng hữu cơ và liên kết doanh nghiệp bao tiêu đầu ra, ông Hà mạnh dạn tham gia. Ông Hà cho biết, canh tác dừa hữu cơ mang lại hiệu quả rất cao, sản lượng tăng 20 - 30%. Với 2ha, ông Hà trồng hơn 400 cây dừa, mỗi tháng thu hoạch từ 2.500 - 3.000 trái. Bên cạnh đó, ông Hà tự mua phân chuồng từ các hộ nuôi dê, bò trong xã để về ủ phân hữu cơ bón cho cây dừa, tiền đầu tư phân hữu cơ giảm 50% so với sử dụng phân bón hóa học. Nếu giá trung bình 80.000 đồng/chục, mỗi năm ông Hà thu nhập 120 - 150 triệu đồng. Như vậy, thu nhập từ cây dừa hữu cơ rất lớn, đảm bảo được đời sống của người trồng dừa.
Xây dựng vùng sản xuất
Theo thống kê của ngành nông nghiệp, tỉnh hiện có tổng diện tích liên kết chuỗi giá trị đối với cây dừa là 23.747ha, chiếm 30% diện tích dừa toàn tỉnh. Toàn tỉnh có 24.640ha sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ, GAP và tương đương; trong đó, diện tích dừa sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ 18.525ha. Đến nay, toàn tỉnh có 17 mã số vùng trồng nội địa với tổng diện tích 808,51ha; 43 vùng trồng xuất khẩu (93 mã) với diện tích 705,51ha; 6 doanh nghiệp được cấp mã số cơ sở đóng gói xuất khẩu sang các thị trường như: Hoa Kỳ, châu Âu, Trung Quốc, Thái Lan...
Tỉnh đã triển khai xây dựng thí điểm vùng sản xuất tập trung giai đoạn 2021 - 2023 trên các loại cây trồng, vật nuôi chủ lực. Cụ thể đã triển khai xây dựng thí điểm 6 vùng sản xuất dừa tập trung với diện tích 2.202,69ha. Trong đó có 5 vùng sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ, diện tích 2.162,69ha; 1 vùng sản xuất dừa uống nước với diện tích 40ha. Đặc biệt trong năm 2023, trái dừa tươi đã nhận được tín hiệu đáng mừng khi 2 thị trường Mỹ và Trung Quốc công bố cho phép nhập khẩu trái dừa tươi.
Xây dựng thí điểm vùng sản xuất tập trung sầu riêng tại xã Tân Phú (Châu Thành) với tổng diện tích chứng nhận VietGAP là 76,5ha, trong đó diện tích liên kết đạt 55,7ha giữa Hợp tác xã Nông nghiệp Tân Phú với 2 công ty (Công ty TNHH Green Powers và Công ty TNHH Hoàn Châu - Á Châu). Riêng ở Châu Thành đã xây dựng mô hình thí điểm vùng sản xuất bưởi da xanh với diện tích 60,8ha (kế hoạch là 50ha). Hỗ trợ xây dựng chứng nhận VietGAP đạt 100% và thực hiện liên kết với Công ty TNHH MTV Xuất nhập khẩu trái cây Hương Miền Tây, sản lượng liên kết tiêu thụ khoảng 500 tấn/năm.
Phát triển nền “nông nghiệp số”
Gắn bó và làm giàu nhờ nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao (CNC), nông dân Lê Văn Sấm, xã Thạnh Hải, huyện Thạnh Phú trở thành một trong những điển hình nuôi tôm theo hướng CNC thành công đầu tiên của tỉnh. Với trên 40ha nuôi tôm CNC, ông Sấm thu hoạch trung bình 70 - 90 tấn/ha, mỗi năm thu lợi hơn 25 tỷ đồng. Theo ông Sấm, trước đây, ông “lận đận” với con tôm biển hơn 20 năm, có lúc, ông phải bán ao để trả nợ, vì tôm nuôi nhiễm bệnh. Năm 2013, ông “chơi lớn” đầu tư thử nghiệm mô hình nuôi tôm CNC. Ưu điểm của mô hình mới là có thể kiểm soát được môi trường nuôi, quản lý dịch bệnh, năng suất tôm thu hoạch cao gấp nhiều lần so với nuôi truyền thống. Khả năng thành công trên 90%, một năm có thể nuôi 2 - 3 vụ.
Tính đến cuối năm 2023, tỉnh đã phát triển được hơn 3.110ha tôm CNC. Theo Nghị quyết số 04-NQ/TU của Tỉnh ủy về phát triển Bến Tre về hướng Đông giai đoạn 2021 - 2025 và tầm nhìn đến năm 2030; trong đó có nuôi tôm CNC, mục tiêu đến năm 2025, tỉnh sẽ phát triển 4.000ha nuôi tôm biển ứng dụng CNC và đến năm 2030 là 5.000ha. Để đạt được mục tiêu đề ra, tỉnh rà soát quy hoạch và xây dựng các vùng nuôi theo hướng CNC; đồng thời, tập trung phát triển nhanh, mạnh đối với tôm sú, tôm chân trắng có thị trường tốt; nhân rộng và phát triển mô hình nuôi tôm CNC, nuôi an toàn sinh học, nuôi 2 giai đoạn để nâng cao năng suất, sản lượng và phát triển bền vững.
Theo Sở Khoa học và Công nghệ, đơn vị đang triển khai ứng dụng Map4D GIS Platform cho việc số hóa, quản lý nuôi tôm CNC (4.000ha) tại tỉnh, để xây dựng phần mềm số hóa, quản lý 1.900ha vùng nuôi tôm CNC, hướng đến việc mở rộng phạm vi số hóa, quản lý 4.000ha theo quy hoạch giai đoạn 2021 - 2025 và xây dựng giải pháp phát triển phạm vi nuôi chuyên canh tôm CNC trên địa bàn tỉnh. Ngoài ra sở cũng đã phối hợp với ngành chuyên môn, các địa phương xây dựng bản đồ chuyên đề nông nghiệp trồng trọt tỉnh, cho phép cập nhật thông tin lên bản đồ các dữ liệu đã chuẩn hóa GIS và phần mềm quản lý cây trồng nông nghiệp tích hợp trên bản đồ số. Ứng dụng công nghệ Blockchain phục vụ quản lý và phát triển sản phẩm theo chuỗi giá trị, gắn sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm đặc sản của địa phương. Nghiên cứu xây dựng mô hình chuyển đổi số trong quản lý chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” trên địa bàn tỉnh, áp dụng công nghệ số trong quản lý chương trình OCOP, nâng cao giá trị và thương hiệu của các sản phẩm OCOP, góp phần thực hiện thành công chương trình chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tỉnh.
Xác định chuyển đổi số trong nông nghiệp là bước tiến đầy cơ hội và cũng tiềm ẩn nhiều thách thức, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Đoàn Văn Đảnh cho rằng, nếu chủ động thực hiện chuyển đổi số trong nông nghiệp sớm sẽ giúp nông nghiệp tỉnh nắm bắt thời cơ, lợi thế tạo động lực mới cho nông nghiệp, nông thôn phát triển hiệu quả, bền vững.
Qua thống kê, tỉnh đã triển khai hệ thống giám sát và theo dõi sâu bệnh hại thông minh trên cây ăn trái tích hợp camera điện toán biên, hệ thống quan trắc chất lượng nước thông minh và hệ thống bơm nước thông minh đầu tư vùng thí điểm hợp tác xã bưởi da xanh Giồng Trôm; hệ thống tưới thông minh đầu tư 25 hộ nông dân và phân bón thông minh; triển khai mô hình ứng dụng công nghệ 4.0 và thiết bị thông minh vào quản lý, canh tác và truy xuất nguồn gốc chuỗi giá trị bưởi da xanh, quản lý sản phẩm nuôi cấy mô trong phòng nuôi cấy tế bào thực vật; một số trang trại chăn nuôi đã đầu tư công nghệ chuồng lạnh, mạch điều chỉnh ánh sáng tự động, nhiệt độ, ẩm độ...
“Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh đã đầu tư lắp đặt 14 trạm quan trắc tự động thông minh đo từ 9 - 14 thông số môi trường nước phục vụ cho nuôi trồng thủy sản trên địa bàn huyện Ba Tri và Thạnh Phú. Tất cả các dữ liệu quan trắc được chia sẻ cho các đơn vị, nông dân trên địa bàn huyện để tiếp cận theo dõi, chủ động trong công tác phòng ngừa, dự báo trong sản xuất. Ngoài ra, ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh cũng phát triển nền tảng dữ liệu số nông nghiệp và nền tảng truy xuất nguồn gốc, với 23 phần mềm/cơ sở dữ liệu đang sử dụng”.
(Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Đoàn Văn Đảnh)
|
Chương Đài