 |
Bác Hồ chụp ảnh lưu niệm với các cháu thiếu nhi Việt kiều Thái Lan về nước chuyến đầu tiên đến chào Người tại Phủ Chủ tịch, Hà Nội, tháng 2-1960. Ảnh: Tư liệu |
Tháng 8-1969, ông Đoàn Văn Đức - nguyên Chủ tịch UBND Cách mạng tỉnh Bến Tre (từ tháng 3-1972 đến tháng 4-1975), có chuyến đi công tác đặc biệt sang đất bạn Campuchia.
Theo lời ông kể lại, trên đường công tác,
nhân dân ta chịu cảnh quá đau thương không gì bù đắp được - Bác Hồ vĩnh biệt
chúng ta! Nỗi đau xé lòng. Ở trên đất bạn, khi nghe, nhìn bà con Việt kiều
thương khóc, niềm trang trọng, kính yêu vị lãnh tụ càng thấm đậm vô vàn.
Ông Đoàn Văn Đức đã mất nhưng những hồi ức về chuyến công
tác lịch sử ấy được ông kể, ghi lại với lòng thành lưu tặng cho các bạn bè, con
cháu nhân ngày Quốc khánh 2-9; ngày Bác Hồ vĩnh biệt dân tộc ta.
Theo hồi ức: 5 giờ sáng ngày 3-9-1969, tôi thức giấc lo
thu xếp hành trang, bỗng nghe radio của cơ quan vọng lên “Bác Hồ đã vĩnh biệt
chúng ta...”. Nghe qua cả trạm giao liên trái tim như ngừng đập. Tiếng khóc kể
không ngớt vì Bác không còn nữa! Riêng tôi, nỗi đau không ngăn được nước mắt,
song vì nhiệm vụ phải nuốt lệ ra đi. Đúng 7 giờ sáng, chị giao liên đưa tôi đến
phà Nietluong của tỉnh Soairieng để sang sông. Phà cập bến, tôi lên trước, mấy
cậu lái xe honda, xe lôi chạy lại mời đi tôi nói “châm tit” họ đứng chờ... chị
giao liên lên đến, cả hai ra xe khách, hầu hết đi trên xe là người bản địa, họ
nói gì không biết, chỉ lâu lâu nghe giọng nói lơ lớ: Ho Chi Minh, Sihanuck...
không biết có phải họ nói: Nhà vua nói Bác Hồ đã qua đời không...
Trên đường dài vô tận, ngồi trên xe nỗi buồn thương nhớ
Bác sao thấy cảnh vật cũng đìu hiu, ủ rũ như đang chia sớt nỗi đau với “lữ
khách”. Mãi suy tư, lo nghĩ là đến 15 giờ, xe qua cầu Kandal vào thành phố
Phnôm Pênh, nơi điểm hẹn. Theo quy ước, hai em tổ liên lạc rước tôi lên xe 4 chỗ
đưa vô nội thành trao cho cơ sở Việt kiều. Tôi được gia đình cơ sở bố trí nơi
ăn, nghỉ khá chu đáo và sinh hoạt việc ứng xử khi có nhà chức trách đến kiểm
tra, qua đó tôi an tâm chờ ngày đi.
Vì mới đến nước ngoài lần đầu tiên, trong câu chuyện trao
đổi về quê hương, đất nước tôi được anh cơ sở cho biết cảnh quan của thành phố
Phnôm Pênh, nếp sống của cư dân, chính sách của Nhà nước đối với ngoại kiều...
Câu chuyện chưa kết thúc, tôi thấy bà con từ nhiều ngõ đổ vô gia đình cơ sở lúc
chạng vạng tối, đi thẳng vào buồng ngủ, lại nghe tiếng khóc vọng ra. Không biết
việc gì, tôi hỏi, được anh cho biết: Ban đại diện vừa nhận được thông báo Bác Hồ
đã qua đời, mấy anh lấy nhà tôi làm điểm họp để báo với bà con tin buồn và bàn
việc thờ cúng Bác, khi được tin bà con xúc động vì thương nhớ Cha già không còn
nữa nên khóc kể nức nở! Nghe qua lòng tôi lại quặn đau vì con em xa quê cha, đất
tổ, song mọi nỗi vui, buồn, đau, thương đều quyện chặt vào cộng đồng ngàn đời của
dân tộc Việt Nam.
Sáng ngày 4-9-1969, nơi đây chợ trái cây và hoa không đủ
bán vì bà con kẻ ít, người nhiều đều mua về dâng Bác. Nhưng không dám tập hợp
đông do sợ nhà chức trách sở tại làm khó nên tự gia đình xếp trái cây lên mâm
và bình hoa đưa lên bàn thờ đốt hương cúng Bác... Việt kiều đang sinh sống ở nước
ngoài đều rất đau buồn, mến thương lãnh tụ Hồ Chí Minh, cụ thể như ở Phnôm Pênh
(Campuchia).
Được tin Bác Hồ đã vĩnh biệt, Quốc vương Norodom Sihanuck
ra lệnh treo cờ rủ 3 ngày và cấm các cuộc vui chơi để tỏ lòng mến thương, tôn
trọng đức độ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, suốt cuộc đời vì lý tưởng lo cho nước,
cho dân đến lúc ra đi... 5 ngày sau đó, nhà vua tổ chức lễ cầu siêu trước Ngọ
Môn của Hoàng cung với 79 vị sư sãi tụng niệm, tượng trưng lúc Chủ tịch Hồ Chí
Minh ra đi thọ 79 tuổi.
Từ cách hành xử của Quốc vương Campuchia, ta liên tưởng đến
tất cả các quốc gia trên thế giới tuy thái độ chính trị có khác nhau hoặc có định
kiến với Việt Nam, song hầu hết nhà cầm quyền đều tôn kính Chủ tịch Hồ Chí Minh
là nhà văn hóa lớn, là bậc danh nhân trên thế giới, là vĩ nhân của thời đại.
Nên khi Bác Hồ từ trần, các vị lãnh tụ, đại diện các quốc gia đến phúng điếu,
phân ưu với Đảng ta và nhân dân Việt Nam anh hùng.