
Bến Tre - Xứ Dừa. Ảnh: H. Linh
Ngược dòng lịch sử
Quá trình hình thành vùng đất Bến Tre gắn liền với hình thành vùng đồng bằng sông Cửu Long và khởi nguồn cách nay vài triệu năm. Cho đến cách nay khoảng 2.500 - 2.000 năm, đất Bến Tre mới nhô lên khỏi mặt nước biển và phải 500 - 300 năm sau, khi nước biển rút dần, đất Bến Tre dần dần xuất lộ như hình hài hiện nay.
Trước khi di chỉ Giồng Nổi được khai quật (từ năm 2004 - 2006, tại xã Bình Phú - TP. Bến Tre) tất cả mọi người, kể cả các nhà khoa học, đều tin chắc rằng Bến Tre chỉ tồn tại với niên đại khoảng 300 năm. Nhưng đến nay, qua các lần khai quật ở di chỉ Giồng Nổi, các cứ liệu đã chứng minh, Bến Tre đã có cách nay hơn 2.000 năm. Các di chỉ khảo cổ Giồng Nổi cho thấy từ khoảng thế kỷ V (TCN) con người đã cư trú ở đây. Giồng Nổi là một làng cổ, nơi sinh sống tập trung ổn định của cư dân cổ Bến Tre qua nhiều thế hệ, kéo dài mấy trăm năm.
Từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VII sau Công nguyên, đất Bến Tre ngày nay thuộc lãnh thổ nước Phù Nam, một đế chế hùng mạnh rộng lớn, nhưng về sau nội bộ chia rẽ, và suy yếu dần,
Năm 1698, khi chúa Nguyễn Phúc Chu cử Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào miền Nam lập ra phủ Gia Định thì đất Bến Tre còn là của nước Thủy Chân Lạp (thuộc Phù Nam trước đây). Đến năm Đinh Sửu (1757) vua Nặc Nguyên chết, chú là Nặc Nhuận xin hiến đất Trà Vang (Trà Vinh, Bến Tre) và Ba Thắt (Sóc Trăng, Bạc Liêu) để được Võ vương Nguyễn Phúc Khoát phong làm vua.
Như vậy, từ năm 1757, đất Bến Tre không còn thuộc Thủy Chân Lạp nữa mà được sáp nhập vào bản đồ nước Nam, thuộc châu Định Viễn, dinh Long Hồ, phủ Gia Định (dinh Long Hồ đóng ở Vĩnh Long, trước năm 1757 đóng tại Cái Bè - Tiền Giang).
Đến năm 1779, khi Nguyễn Ánh chiếm lại Gia Định, tổ chức lại hành chánh thì đất Bến Tre thuộc tổng Tân An, châu Định Viễn, dinh Long Hồ, phủ Gia Định (châu Định Viễn có 3 tổng: Bình An, Bình Dương và Tân An). Nhờ sự cần cù chịu đựng gian khó khai khẩn, vùng đất mới Bến Tre ngày càng được mở rộng, di dân đến định cư ngày càng đông, đơn vị hành chính mới qua các triều đại thay đổi nhiều tên gọi. Cho đến năm 1851, dưới triều Tự Đức, đất Bến Tre được gọi là phủ Hoằng Trị, gồm 4 huyện: Tân Minh, Duy Minh (cù lao Minh), Bảo An, Bảo Hựu (cù lao Bảo).
Thành lập tỉnh Bến Tre
Năm 1867, sau khi chiếm Nam Kỳ lục tỉnh, phủ Hoằng Trị (Bến Tre) thuộc tỉnh Vĩnh Long, thực dân Pháp đổi thành hạt Hoằng Trị. Theo quyết định của toàn quyền Đông Dương Paul Doumer ký ngày 12-12-1899, các hạt đổi thành tỉnh (province) có hiệu lực pháp lý từ ngày 1-1-1900. Bến Tre chính thức thành đơn vị hành chính cấp tỉnh gồm có cù lao Minh và cù lao Bảo, với 21 tổng, 144 làng. Năm 1910 thêm đơn vị hành chánh quận, Bến Tre có 4 quận Sóc Sải (Châu Thành ngày nay), Ba Tri, Mỏ Cày và Thạnh Phú. Thời điểm này, dân số Bến Tre có 223.405 người.
Trong kháng chiến chống Pháp, có thời điểm Ủy ban Kháng chiến hành chính tỉnh đổi tên tỉnh Bến Tre thành tỉnh Đồ Chiểu (6-2-1946). Lập thêm quận Tán Kế (lấy một phần đất Ba Tri và Châu Thành).
Năm 1948, thực hiện Nghị định của Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ, quận An Hóa của tỉnh Mỹ Tho được sáp nhập về Bến Tre. Đồng thời, lập mới huyện Chợ Lách lấy từ 6 xã của Vĩnh Long và 14 xã của phía Bắc Mỏ Cày; thành lập thị xã Bến Tre trên địa bàn xã An Hội I và An Hội II của huyện Châu Thành, giải thể quận Tán Kế. Tên gọi: quận, làng đổi là huyện, xã.
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, Ngô Đình Diệm lên nắm quyền, đến năm 1956 đổi tên Bến Tre là Kiến Hòa. Riêng ta vẫn giữ tên Bến Tre, cơ bản vẫn giữ như năm 1948; năm 1959 lập huyện Giồng Trôm trên cơ sở huyện Tán Kế cũ đã giải tán.
Từ ngày 30-4-1975 đến nay, sau nhiều lần điều chỉnh cho phù họp với điều kiện phát triển của đất nước và địa phương, Bến Tre hiện có 8 huyện và 1 thành phố trực thuộc tỉnh, 164 xã, phường, thị trấn.
Khí phách người Bến Tre
Vùng đất Bến Tre được sáp nhập vào lãnh thổ nước ta từ giữa thế kỷ thứ XVIII (năm 1757), nhưng thực ra đã có lưu dân người Việt đến đây ở từ thế kỷ XVII. Qua điều tra, khảo sát về nguồn gốc dân cư vào năm 1983-1984 và nghiên cứu 281 gia phả các gia đình, dòng tộc trong dân còn lưu giữ, cho thấy những người Việt từ miền Trung mà phần lớn là dân Ngũ Quảng đã dùng thuyền vượt biển vào các cửa sông lớn vào đất Bến Tre, rồi tìm chỗ thuân lợi định cư, liên tục đến thế kỷ XVIII di dân đến đông gấp 10 lần và ồ ạt nhất là vào thế kỷ XIX. Trước khi thực dân Pháp xâm lược Nam Bộ, đất đai được khai phá trồng trọt trên đất cù lao Bảo và cù lao Minh trên 28% đất tự nhiên. Nhiều cánh đồng lúa xanh tốt kéo dài theo sông rạch, những vườn cây ăn trái sum suê, trĩu quả… Từ một vùng rừng rậm âm u, ẩn chứa đầy hiểm nguy “dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um”, Bến Tre hoang vu đã trở thành một vùng nông nghiệp trù phú, dân cư ngày càng đông đúc.
Để có được những thành quả trên là biết bao mồ hôi và cả xương máu của các thế hệ lưu dân đổ ra. Những địa danh đến nay còn lưu lại dấu ấn của một thời “khai sơn phá thạch” như: giồng Ông Hổ, giồng Heo, giồng Rọ, Heo Hầm, Sân Trâu, Cái Cấm, Cá Sấu, Cái Trăn, Bào Dơi, Bào Sấu, Láng Tượng… Suốt thời gian ấy người dân không phải cật lực lao động sản xuất trong yên bình mà còn phải hứng chịu hậu quả cuộc nội chiến dai dẳng giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh, rồi cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi và sự đàn áp khủng bố trả thù khốc liệt sau đó.
(Còn tiếp)
Vũ Hồng Thanh
Nguyên Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy