Bối cảnh lịch sử tình thế cách mạng ở Bến Tre

25/08/2023 - 05:16

BDK - Là một bộ phận của phong trào đấu tranh cách mạng ở miền Nam, hoạt động cách mạng ở Bến Tre luôn chịu sự chi phối, tác động từ chỉ thị của Trung ương Cục miền Nam, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Đồng thời, quân và dân Bến Tre có những sáng tạo riêng trong nghệ thuật chiến đấu do đặc trưng về vùng miền. Trong kháng chiến chống Mỹ, thị xã Bến Tre là trung tâm hành chính của chính quyền Sài Gòn. Khám Lá là nhà tù lớn nhất tỉnh, nơi giam cầm những người yêu nước. Bên cạnh đó, con người vùng đất Bến Tre giàu truyền thống yêu nước có từ thời xa xưa và đến nay tiếp tục phát huy. Thông qua những đội tự vệ mật, phong trào học sinh yêu nước ở thị xã, những cuộc tấn công “ba mũi giáp công” của “Đội quân tóc dài” đã gây cho đối phương nhiều lao đao, khốn khổ. Có thể nói mỗi con đường, góc phố trong thị xã đều gắn liền với những chiến công, những sự kiện đấu tranh bất khuất, kiên cường của nhân dân Bến Tre(1).

Tượng đài kỷ niệm bến tàu không số huyền thoại, nơi tiếp nhận vũ khí từ Bắc chi viện vào Nam bằng đường biển. Ảnh: Hoàng Trung

Sau Đồng khởi, Bến Tre giữ vững được thành quả tiến công và nổi dậy, liên tục giải phóng và giành quyền làm chủ ngày càng rộng (57 xã), hình thành thế liên hoàn giữa Bến Tre - Trà Vinh, Bến Tre - Gò Công, tạo vùng lõm an toàn, nên Khu 8 chọn Bến Tre làm điểm đi bằng đường biển ra Trung ương xin vũ khí lần thứ hai. Xã Thừa Đức, Thới Thuận (Bình Đại) cùng với các xã Thạnh Phong, Giao Thạnh (Thạnh Phú) là những bến tiếp nhận vũ khí của Miền: chi viện vào tỉnh Bến Tre và chuyển đi các tỉnh miền Đông Nam Bộ, trong đó, hoạt động nổi bật là ở bến A101 tại cồn Bửng, Khâu Băng (xã Thạnh Phong, huyện Thạnh Phú). Hành trình vận chuyển vũ khí của những “Đoàn tàu không số” cập bến Bến Tre trải qua khó khăn, gian khổ, hy sinh không ít, nhưng nhờ “thế trận lòng dân” hòa quyện với “trái tim của người chiến sĩ”, cuối cùng hàng chục chuyến tàu với hàng ngàn tấn vũ khí đã cập bến an toàn(2).

Theo sự chỉ đạo của Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền, chiến trường Quân khu 8 có hai trọng điểm tổng công kích - tổng khởi nghĩa. Trọng điểm 1 là thành phố Mỹ Tho, trọng điểm 2 là thị xã Bến Tre. Để thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, Tỉnh ủy Bến Tre đề ra nhiệm vụ: Phát huy truyền thống của quê hương Đồng Khởi, với tư tưởng tự lực tự cường, Đảng bộ, quân và dân Bến Tre đoàn kết, tập trung cùng với quân và dân toàn miền Nam tổng công kích và nổi dậy giành thắng lợi quyết định. Tỉnh ủy chủ trương: Dồn tất cả lực lượng lấy cho được thị xã khi bước vào tấn công, rồi từ thị xã tỏa ra giải phóng nông thôn. Để thực hiện được quyết tâm đó, Tỉnh ủy chỉ thị: “… toàn bộ vùng nông thôn, các nơi phải chớp thời cơ chung mà tự lực tấn công, phải dành mọi ưu tiên cho thị xã, khi thị xã cần gì kể cả cán bộ, vũ khí và mọi phương tiện khác… thì các nơi phải sẵn sàng và phải chấp hành nghiêm chỉnh”(3).

Yếu tố con người và vũ khí là vấn đề then chốt để giành thắng lợi. Chỉ trong một thời gian ngắn, tỉnh đã có bốn tiểu đoàn bộ binh (516, 2, 3, 4), một tiểu đoàn đặc công, công binh, các đại đội săn tàu, Đại đội 12,8mm, ĐKZ75, cối 82mm, thông tin, trinh sát và bảy tiểu đoàn dân quân du kích. Gần 200 cơ sở được gây dựng trong lòng địch, phát động gia đình binh sĩ tuyên truyền chủ trương ngừng bắn trong dịp Tết Nguyên đán, vận động binh sĩ về gia đình ăn Tết nhằm giảm quân số thường trực tại tỉnh. Các trường trung học và bổ túc công nông đã tập hợp nhiều thầy và trò, biên chế thành một tiểu đoàn tham gia cuộc tấn công. Các huyện Châu Thành, Ba Tri, Bình Đại, Thạnh Phú, Chợ Lách, mỗi huyện có một đại đội bộ binh và một tiểu đoàn dân quân du kích. Riêng huyện Mỏ Cày, có hai tiểu đoàn dân quân, một đại đội liên quân du kích. Ở thị xã có một đại đội bộ binh và một trung đội biệt động. Các tiểu đoàn bộ binh và đại đội binh chủng trang bị hỏa lực mạnh và được huấn luyện theo phương án tác chiến mới nhằm nâng cao khả năng độc lập tác chiến và hợp đồng binh chủng với quy mô ngày càng lớn. Trước khi nổ ra cuộc tấn công, Bến Tre đưa về Khu một tiểu đoàn, về Miền một tiểu đoàn. Trong khi ta khẩn trương tiến hành công tác chuẩn bị thì quân đội Mỹ, đồng minh và quân đội Sài Gòn đẩy mạnh kế hoạch “ưu tiên bình định” tỉnh Bến Tre. Do đó, song song với việc chuẩn bị trên, cách mạng vẫn duy trì thế tiến công và đánh phá bình định thường xuyên để giữ thế chiến trường, giữ bí mật tuyệt đối kế hoạch tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Lúc này, lực lượng quân đội Sài Gòn tại Bến Tre có hơn 13 ngàn quân gồm bốn tiểu đoàn chủ lực thuộc Trung đoàn 10, Sư đoàn 7 bộ binh, 30 đại đội bảo an, hơn 5.500 dân vệ và một số đơn vị công an, cảnh sát, thường xuyên mở các cuộc càn quét đánh phá vào vùng căn cứ ta. Đồng thời, quân đội Sài Gòn ở đây cũng tập trung một lực lượng lớn để bảo vệ, phòng giữ thị xã, tại các vị trí này được bố trí hỏa lực mạnh để bảo vệ.

Trong bài viết này, chúng tôi không đi sâu tìm hiểu diễn biến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy (1968) ở Bến Tre, mà chỉ nghiên cứu những kết quả đã đạt được để cho thấy tinh thần yêu nước, ý chí quật cường, ý thức tự lực tự cường, sáng tạo tuyệt vời của quân dân nơi đây. Ngày 4-2-1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh có điện khen quân dân miền Nam, trong đó có Bến Tre về thành tích Xuân Mậu Thân. Ngày 1-3-1968, quân và dân Bến Tre gửi bức thư lên Bác Hồ để báo cáo những chiến thắng tại thị xã và các mặt trận sau gần một tháng tiến công và nổi dậy, vừa hứa hẹn với Bác sẽ vượt mọi khó khăn, ác liệt, quyết giành thắng lợi to lớn hơn nữa(4).

Sau đợt 3 (tháng 8-1968), Quân khu ủy Khu 8 mở Hội nghị tổng kết thi đua Xuân Mậu Thân, Bến Tre vinh dự có 7 đơn vị nhận cờ thi đua với 8 chữ vàng: “Anh dũng Đồng khởi, thắng Mỹ, diệt ngụy”. Tiểu đoàn 516: “Tấn công liên tục, thắng Mỹ, diệt ngụy”, được Bộ Tư lệnh Miền tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba; Tiểu đoàn 560: “Trưởng thành nhanh chóng, chiến thắng vẻ vang”. Đại đội I, Tiểu đoàn 516: “Liên tục tấn công, luồn sâu diệt gọn”. Đội săn tàu Bến Tre: “Anh dũng kiên cường, diệt nhiều tàu Mỹ”. Đội I Quân y tỉnh: “Dũng cảm quên mình, phục vụ thương binh”. Đại đội Đặc công thủy: “Cỡi sóng Hàm Luông, nhận chìm hạm Mỹ”. Bộ đội địa phương huyện Chợ Lách: “Tiến công ba mũi, giết giặc mở vùng”(5). Tại Hội nghị nhân dân du kích chiến tranh toàn Miền tháng 10-1968, Ủy ban Trung ương Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam đã tuyên dương 3 tỉnh đạt thành tích xuất sắc nhất trong sự nghiệp chống Mỹ (1954 - 1968) các danh hiệu sau đây(6):

1. Bến Tre: “Anh dũng Đồng khởi, thắng Mỹ, diệt ngụy”.

2. Long An: “Trung dũng, kiên Cuờng, toàn dân đánh giặc”.

3. Quảng Nam - Đà Nẵng: “Trung dũng, kiên cường, đi đầu diệt Mỹ”.

Trước năm 1968, số xã giải phóng của Bến Tre là 60/115 xã, là nguồn lực và chỗ dựa quan trọng để mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân. Sau chiến dịch Xuân Mậu Thân 1968, Mỹ và quân đội Sài Gòn tiếp tục thực hiện kế hoạch “bình định cấp tốc”, tập trung lấn chiếm vùng giải phóng. Nhiều trận đánh của lực lượng vũ trang và nhân dân ta dựa vào xã chiến đấu thắng lợi lớn. Nhìn chung từ sau Đồng khởi 1960 đến cuối năm 1968, vùng giải phóng ở Bến Tre được giữ vững và mở rộng thêm. Quân và dân Bến Tre từng bước góp phần tiêu hao, tiêu diệt một lực lượng quan trọng của Mỹ, quân đội Sài Gòn. Nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh của Mỹ, quân đội Sài Gòn bị cách mạng phá hủy và hệ thống phòng thủ đô thị bị tan rã. Thắng lợi này giúp ta tạo bước ngoặt quyết định của cuộc kháng chiến chống Mỹ, buộc họ phải ngồi vào bàn đàm phán chính thức với ta ở Paris.

Bối cảnh lịch sử là một trong những nhân tố tác động dẫn đến thắng lợi quan trọng về mặt ngoại giao, chính trị lẫn quân sự. Đặc biệt, những năm 1967, 1968 khi cục diện thế giới (Liên Xô, Trung Quốc) đã có những hỗ trợ tích cực cổ vũ cho phong trào cách mạng ở Việt Nam. Trên cơ sở tình hình thực tiễn ở miền Nam Việt Nam, đặc biệt là vùng đất Bến Tre đã có những chuyển biến rõ nét. Nếu như cuộc Đồng khởi đánh dấu bước ngoặt quan trọng từ Bến Tre lan nhanh ra toàn miền Nam, đưa cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công mạnh mẽ, đẩy chính quyền Sài Gòn rơi vào cuộc khủng hoảng triền miên, thì thắng lợi Mậu Thân (1968) là sự kế thừa, phát huy sức mạnh Đồng khởi, tô thêm trang sử hào hùng của quân và dân Bến Tre.

TS. Đỗ Cao Phúc

----------------------------------------------------

(1) Thạch Phương, Đoàn Tứ (2001), Địa chí Bến Tre, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.75.

(2) Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Bến Tre (2020), Bến Tre - Đất và người, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.143.

(3) Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bến Tre (2017), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bến Tre (1930 - 2015), Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.268-269.

(4) Lê Chí Nhân (2016), Nhà báo lão thành Lê Chí Nhân - Cây bút xông pha không mỏi, Ban Chấp hành Hội Nhà báo Việt Nam tỉnh Bến Tre, Tài liệu lưu hành nội bộ.

(5) Cao Văn Dũng (2018): “Anh dũng Đồng khởi, thắng Mỹ, diệt ngụy” Báo Đồng Khởi Online: https://baodongkhoi.vn/bai-4-anh-dung-dong-khoi-thang-my-diet-nguy--05022018-a46890.html

(6) Thạch Phương, Đoàn Tứ (2001), Địa chí Bến Tre, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN