Cần chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học nhưng có cơ chế kiểm soát hiệu quả

08/05/2025 - 13:48

BDK.VN - Tham gia thảo luận tại Tổ số 9, góp ý cho dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, đại biểu Nguyễn Thị Lệ Thủy, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, đại biểu Quốc hội đơn vị tỉnh Bến Tre đánh giá cao Ban soạn thảo đã tiếp thu các ý kiến của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường góp ý cho dự thảo Luật tại cuộc họp gần nhất.

Đại biểu Nguyễn Thị Lệ Thủy phát biểu thảo luận tại Tổ số 9.

Người sản xuất có trách nhiệm quản lý chất lượng sản phẩm

Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, đại biểu cho rằng, về nguyên tắc phân loại và quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa, dự thảo Luật quy định sản phẩm, hàng hóa được phân thành ba loại: Sản phẩm, hàng hóa có mức độ rủi ro thấp; Sản phẩm, hàng hóa có mức độ rủi ro trung bình; Sản phẩm, hàng hóa có mức độ rủi ro cao, mỗi loại có nguyên tắc quản lý chất lượng riêng.

Theo đại biểu, so với Luật hiện hành, dự thảo Luật còn thiếu một nguyên tắc quan trọng, đó là nguyên tắc: “Quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa là trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh nhằm bảo đảm an toàn cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường; nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa Việt Nam”.

Đại biểu đề nghị Ban soạn thảo nên kế thừa nguyên tắc quản lý này vì nó vẫn đang còn giá trị, có quy định việc quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa là trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh thì mới có thể xử lý trách nhiệm của các đối tượng này khi có hành vi vi phạm xảy ra.

Quy định này cũng nói rõ mục đích của việc quản lý là để bảo vệ quyền lợi, sự an toàn của người dân và môi trường cũng như nâng cao chất lượng, khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa Việt Nam.

Nguyên tắc thứ hai là quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo tiêu chuẩn, quy chuẩn tương ứng với các mức độ rủi ro, đại biểu đồng tình, nhưng với quy định tại khoản 2 và 3 dự thảo Luật nếu không giữ lại nguyên tắc thứ nhất thì người đọc có thể hiểu rằng đối với nhóm sản phẩm, hàng hóa rủi ro thấp thì không cần quản lý và không có người chịu trách nhiệm về chất lượng.

Ngoài ra, đại biểu cũng đề nghị bổ sung một nguyên tắc khác chưa có trong Luật hiện hành cũng như dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung, đó là nguyên tắc: Đối với các sản phẩm, hàng hóa mà Việt Nam chưa có tiêu chuẩn, quy chuẩn thì phải áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực. Đối với hàng hóa nhập khẩu, nếu cả Việt Nam và quốc tế đều có tiêu chuẩn, quy chuẩn thì cho quyền lựa chọn ưu tiên áp dụng hoặc sản phẩm nhập khẩu đã áp dụng tiêu chuẩn cao hơn thì không cần áp dụng tiêu chuẩn Việt Nam bằng hoặc thấp hơn tiêu chuẩn quốc tế để hạn chế chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp và người dân. Như trường hợp nhập khẩu thuốc thú y đã đạt chuẩn GMP vào Việt Nam, tiêu chuẩn này cao hơn tiêu chuẩn của Việt Nam nhưng khi vào Việt Nam vẫn bắt buộc phải làm thủ tục công bố hợp quy, việc này làm gia tăng chi phí không cần thiết cho doanh nghiệp.

Chấp nhận rủi ro nhưng có cơ chế kiểm soát hiệu quả

Đối với dự thảo Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, đại biểu thấy rằng dự thảo Luật đã cụ thể hóa tương đối đầy đủ nội dung của các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, đặc biệt là thể chế hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22-12-2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia và nhiều nội dung mới, ưu việt đã được sửa đổi, bổ sung, như:

Thứ nhất là quy định về thống kê, đo lường, đánh giá kế hoạch, chương trình, nhiệm vụ tổ chức hoạt động khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo để làm cơ sở đánh giá hiệu quả hoạt động khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo. Đây là hình thức định lượng đầu tiên đưa vào hệ thống thống kê quốc gia, đại biểu cho rằng quy định này là rất cần thiết, nhằm đánh giá thực chất hơn, có cơ sở định lượng hơn, nhìn nhận chính xác hơn hiệu quả của hoạt động khoa học công nghệ với đời sống kinh tế - xã hội.

Việc theo dõi, đánh giá này cũng giúp tạo cơ sở để phân bổ ngân sách và giao nhiệm vụ khoa học công nghệ cho các tổ chức, cá nhân trên cơ sở các bộ tiêu chí để đánh giá. Đại biểu thấy quy định này rất cần thiết, tuy nhiên, cần xây dựng thang điểm đánh giá thật khách quan, khoa học, chi tiết, cụ thể trên cơ sở khuyến khích, nâng cao đạo đức nghề nghiệp và liêm chính khoa học.

Theo đại biểu, cần xã hội hóa hoạt động đánh giá, ngoài các cơ quan của Nhà nước thực hiện việc đánh giá, Nhà nước cần khuyến khích các hiệp hội, các đơn vị, tổ chức độc lập có đủ điều kiện, phương tiện và nguồn lực tham gia hoạt động đánh giá, để vừa tăng tính khách quan, vừa tiết kiệm cho ngân sách.

Thứ hai, dự thảo Luật cũng đã cụ thể hóa nhiều quy định, chính sách mới có tác dụng kích thích khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo có tính rủi ro cao như quy định về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox), chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, đại biểu đồng tình với dự thảo Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường, chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học nhưng cũng cần có giới hạn và cũng cần có phân loại lĩnh vực nghiên cứu nào, ở mức độ nào mới áp dụng cơ chế chấp nhận rủi ro.

Theo đại biểu, các lĩnh vực như nghiên cứu cơ bản, khoa học tự nhiên, các nghiên cứu chưa có nhiều giả thuyết hoặc kết quả nghiên cứu được kế thừa, áp dụng trong điều kiện của Việt Nam khác với điều kiện của thế giới thì mới cần chấp nhận rủi ro.

Đại biểu cho rằng, cần tránh tư duy quản lý khi “khóa” thì quá chặt (như các quy định của Luật hiện hành) nhưng khi “mở” thì lại “mở toang” mà thiếu chế tài, cơ chế để kiểm soát hiệu quả. Như cơ chế khoán chi cho nghiên cứu khoa học, phải thiết kế sao để nhà khoa học được tự chủ nhưng cũng phải sử dụng ngân sách tiết kiệm, hiệu quả.

Thứ ba, dự thảo Luật cũng đưa vào quy định về đạo đức nghề nghiệp và liêm chính khoa học (Điều 7), đây cũng là điểm mới. Đại biểu cho rằng quy định về đạo đức nghề nghiệp và liêm chính khoa học được đi kèm với các quy định về chấp nhận rủi ro, cơ chế khoán chi…sẽ tạo ra hành lang pháp lý và giao Chính phủ quy định chi tiết.

Tại khoản 4, Điều 7 dự thảo Luật quy định: “Cập nhật thông tin về các vi phạm liêm chính khoa học và đạo đức nghề nghiệp, khi cần thiết, trên Hệ thống thông tin quốc gia về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo hoặc Nền tảng quản lý khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia nhằm tăng cường minh bạch và trách nhiệm giải trình”.

Đại biểu thống nhất với quy định trên nhưng đề nghị bỏ cụm từ “khi cần thiết” để tránh áp dụng quy định một cách tùy tiện, nếu đã xác định có vi phạm thì sẽ phải cập nhật thông tin trên Hệ thống, đây cũng là một hình thức chế tài nghiêm khắc, đặc biệt đối với các nhà khoa học vi phạm các quy ước về đạo đức nghề nghiệp và liêm chính khoa học.

Thứ tư, về các hành vi bị nghiêm cấm (Điều 6), dự thảo Luật quy định có 4 nhóm hành vi bị cấm gồm: 1. Cản trở, gây khó khăn hoặc can thiệp trái pháp luật vào hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của tổ chức, cá nhân; 2. Lợi dụng hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo để:  Xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; Truyền bá thông tin sai sự thật, xuyên tạc kết quả nghiên cứu khoa học; Vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, chiếm đoạt, sử dụng trái phép kết quả nghiên cứu, sáng chế, thiết kế, phần mềm, giải pháp công nghệ của tổ chức, cá nhân khác; 3. Thực hiện nghiên cứu, thử nghiệm, ứng dụng công nghệ gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài nguyên, môi trường, đa dạng sinh học, sức khỏe cộng đồng. 4. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để can thiệp trái pháp luật vào việc xác định nhiệm vụ, xét chọn, đánh giá, nghiệm thu, công nhận kết quả nhiệm vụ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo.

Đại biểu cho rằng các hành vi bị cấm như quy định của dự thảo Luật chưa có ranh giới rõ ràng, ví dụ hành vi “gây khó khăn” thì khó xác định như thế nào là gây khó khăn, hoặc hành vi “Thực hiện nghiên cứu, thử nghiệm, ứng dụng công nghệ gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài nguyên, môi trường, đa dạng sinh học, sức khỏe cộng đồng”, hành vi thử nghiệm thì hậu quả chưa xảy ra, làm sao biết được thiệt hại nghiêm trọng như thế nào mà cấm, trong khi tại Điều 21 lại có quy định về chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học. Đại biểu đề nghị chỉ hành vi nào có thể xử lý hành chính hoặc hình sự được thì mới đưa vào hành vi bị cấm.

Về chuyển đổi số trong hoạt động khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, dự thảo Luật vừa có quy định về Hệ thống thông tin quốc gia về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, vừa có Nền tảng quản lý khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia. Đại biểu cho rằng chủ trương, quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước đối với công cuộc chuyển đổi số hiện nay là các cơ sở dữ liệu cần phải được liên thông, chia sẻ, dùng chung.

Theo đại biểu, chỉ nên quản lý theo một hệ thống, các hoạt động, thông tin, kết quả nghiên cứu... đưa lên cùng một hệ thống sẽ dễ theo dõi hơn. Khái niệm về Hệ thống và Nền tảng chưa phân biệt được, trong khi đó, một số điều khoản dự thảo Luật quy định thông tin, kết quả nghiên cứu khoa học đưa lên Nền tảng, chỗ khác thì quy định đưa lên Hệ thống, hoặc đưa lên cả hai, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo rà soát các quy định này đảm bảo rõ ràng, dễ phân biệt và tiện lợi cho cá nhân, tổ chức trong việc Nhà nước khuyến khích công khai kết quả nghiên cứu khoa học, hiệu quả ứng dụng và lan tỏa tri thức.

Về Nhiệm vụ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo đặc biệt và Chương trình khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia đặc biệt, tại Khoản 1, Điều 14 dự thảo Luật quy định: “Nhiệm vụ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo đặc biệt và Chương trình khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia đặc biệt là các nhiệm vụ, chương trình có quy mô lớn do Thủ tướng Chính phủ quyết định…”. Theo đại biểu, cần xem lại tiêu chí “quy mô lớn” trong quy định trên, vì có những nhiệm vụ, chương trình quy mô nhỏ nhưng kết quả, giá trị mang lại rất lớn, nếu giữ cụm từ này thì nên làm rõ quy mô lớn là quy mô về cái gì, về giá trị, về kinh phí đầu tư hay là mức độ, khả năng ứng dụng của sản phẩm.

Ngoài ra, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo rà soát, lược bỏ các điều, khoản quy định chưa rõ nội hàm, diễn đạt chung chung theo kiểu văn phong nghị quyết, tuyên truyền, cũng không giao cho Chính phủ quy định chi tiết…vì thiếu tính khả thi.

Cần quy định toàn diện hơn hành vi bị nghiêm cấm

Đối với dự thảo Luật Năng lượng nguyên tử, đại biểu đánh giá cao cơ quan soạn thảo về cách tiếp cận xây dựng luật. Vấn đề an toàn bức xạ là rất quan trọng, và việc mất an toàn bức xạ gây ra hậu quả rất lớn, xuyên biên giới, cơ quan soạn thảo đã tiếp cận vấn đề theo hướng phân chia bức xạ theo nguồn nhân tạo và nguồn tự nhiên để quản lý; phạm vi quản lý khá toàn diện trên các lĩnh vực từ y tế, nông nghiệp, công nghiệp, năng lượng; quản lý từ nguồn có nguy cơ thấp đến nguy cơ cao; quản lý theo vòng đời từ lúc sản xuất ra đến khi không còn sử dụng nữa, tháo dỡ… đại biểu cho rằng cách tiếp cận này rất khoa học và phù hợp với thực tế hiện nay.

Dự thảo Luật cũng đưa ra quy định về Cơ quan pháp quy hạt nhân (Điều 7), đại biểu đề nghị làm rõ vai trò của cơ quan này là trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ, được giao quyền quản lý nhà nước về năng lượng nguyên tử, vì trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước của chúng ta hiện nay chưa có tên cơ quan này, nên đề nghị phải quy định đầy đủ chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của cơ quan này.

Đồng thời, cần rà soát, bổ sung vào nội dung quản lý nhà nước về an toàn bức xạ và hạt nhân một số nội dung còn thiếu như: Bảo vệ môi trường trong quản lý về an toàn bức xạ và hạt nhân; xử lý phế liệu, phế thải hạt nhân... để làm cơ sở cho Cơ quan pháp quy hạt nhân thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

Về những hành vi bị nghiêm cấm (Điều 8), đại biểu đề nghị quy định toàn diện hơn hành vi bị nghiêm cấm trong nghiên cứu khoa học về năng lượng hạt nhân; hành vi bị cấm trong việc quản lý, sử dụng chất thải hạt nhân; trong mua bán phế liệu hạt nhân; vi phạm hành lang an toàn xây dựng nhà máy điện hạt nhân; làm thất lạc, mất mát nguồn phóng xạ nhưng không báo cáo hoặc chậm báo cáo...

Về phát triển nguồn nhân lực Khoản 4, Điều 11 dự thảo Luật quy định: “Người làm việc trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử hưởng lương từ nguồn ngân sách nhà nước được hưởng phụ cấp ưu đãi nghề nghiệp. Người tham gia, thực hiện phát triển điện hạt nhân thuộc tập đoàn, tổng công ty nhà nước được hưởng phụ cấp lương”. Đại biểu đề nghị làm rõ quy định này, vì công ty nhà nước hiện giờ hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, trả lương theo quy định, phụ cấp lương cho “người tham gia” ở đây chưa rõ là tham gia như thế nào. Còn phụ cấp nghề, pháp luật cũng có quy định rồi, theo vị trí nghề nghiệp, vị trí nào trả lương ở mức đó.

Về an ninh nguồn phóng xạ, vật liệu hạt nhân (Điều 21), tại điểm a, điểm b khoản 3, Điều 21 dự thảo Luật quy định: “a) Tổ chức, cá nhân có nguồn phóng xạ, vật liệu hạt nhân bị thất lạc, bị chiếm đoạt hoặc bị phá hoại phải báo cáo ngay cho cơ quan công an, cơ quan quản lý nhà nước về phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, UBND nơi gần nhất và cơ quan pháp quy hạt nhân; phối hợp với cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tổ chức tìm kiếm, thu hồi và xử lý sự cố bức xạ và hạt nhân đối với nguồn phóng xạ, vật liệu hạt nhân và chịu mọi chi phí liên quan; b) Tổ chức, cá nhân phát hiện nguồn phóng xạ, vật liệu hạt nhân phải báo cáo ngay cho cơ quan công an, cơ quan quản lý nhà nước về phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, UBND nơi gần nhất và cơ quan pháp quy hạt nhân”.

 Theo quy định trên thì khi có sự cố hoặc khi phát hiện nguồn phóng xạ, tổ chức, cá nhân phải báo cáo đồng thời nhiều cơ quan khác nhau ở địa phương (UBND, Công an) và trung ương (Cơ quan pháp quy hạt nhân), đại biểu đề nghị nên rà soát, quy định lại đầu mối tiếp nhận báo cáo là cơ quan nào cho người dân dễ liên hệ, để việc xử lý sự cố đảm bảo nhanh chóng, kịp thời.

Về yêu cầu bảo đảm an toàn bức xạ trong y tế (Điều 27), dự thảo Luật dành riêng Điều 27 quy định về vấn đề an toàn bức xạ trong y tế. Tuy nhiên, theo đại biểu, để đảm bảo an toàn bức xạ trong lĩnh vực y tế thì ngoài việc tuân thủ quy định tại Điều 27 còn cần phải tuân thủ quy định tại các Điều 22 về kiểm xạ khu vực làm việc, Điều 24 về an ninh nguồn phóng xạ.

Về tính tương thích với pháp luật có liên quan, khoản 3 Điều 12 quy định: “Nhà nước có chính sách hỗ trợ, ưu đãi đối với các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử”. Theo quy định tại khoản 2, Điều 3 về giải thích từ ngữ thì “Hoạt động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử” được giải thích với phạm vi rất rộng: “là hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử; xây dựng, vận hành và chấm dứt hoạt động cơ sở hạt nhân, cơ sở bức xạ; thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản phóng xạ; sản xuất, lưu giữ, sử dụng, vận chuyển, chuyển giao, chuyển nhượng, xuất khẩu, nhập khẩu nguồn phóng xạ, thiết bị bức xạ, nhiên liệu hạt nhân, vật liệu hạt nhân nguồn, vật liệu hạt nhân và thiết bị hạt nhân; quản lý chất thải phóng xạ, nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng, nguồn phóng xạ đã qua sử dụng và các dịch vụ hỗ trợ ứng dụng năng lượng nguyên tử”. Như vậy, quy định về chính sách hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước có phải áp dụng cho tất cả tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử không, đề nghị cần rà soát lại. Đồng thời, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo cũng rà soát, đối chiếu quy định trên với Luật Đầu tư về các lĩnh vực ưu đãi đầu tư để đảm bảo quy định thống nhất.

Về xã hội hóa các hoạt động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử (Điều 13): Tại khoản 1, Điều 13 dự thảo Luật có quy định: “cơ sở tiến hành công việc bức xạ được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật về xã hội hóa”, đại biểu đề nghị làm rõ pháp luật về xã hội hóa là pháp luật gì.

Về thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, Điều 32 dự thảo Luật quy định: “Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư đối với dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân theo quy định của pháp luật về đầu tư công; chấp thuận chủ trương đầu tư dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân theo quy định của pháp luật về đầu tư và các quy định khác của pháp luật có liên quan”. Theo pháp luật về đầu tư công thì nhà máy điện hạt nhân là dự án quan trọng quốc gia thuộc thẩm quyền của Quốc hội, nhưng dự thảo Luật cũng đã sửa đổi quy định này, đưa nhà máy điện hạt nhân ra khỏi nhóm dự án quan trọng quốc gia.

Đại biểu cho rằng, nếu xét tính chất, mức độ quan trọng của dự án thì nên để Quốc hội xem xét, quyết định, nhưng hiện nay, công nghệ hạt nhân ngày càng trở nên phổ biến, hoạt động hạt nhân chịu sự quản lý của Cơ quan pháp quy hạt nhân trong nước cũng như giám sát của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), nên nếu giao cho Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư nhà máy điện hạt nhân thì cũng phù hợp và giúp dự án được triển khai nhanh.

Về trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản phóng xạ, Điều 45 dự thảo Luật quy định: “Cơ sở thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản phóng xạ có trách nhiệm: 1. Thực hiện giải pháp bảo vệ, cải tạo, phục hồi môi trường theo quy định của Luật Địa chất và khoáng sản, pháp luật về bảo vệ môi trường; bảo đảm an toàn bức xạ theo quy định của pháp luật về an toàn bức xạ. 2. Báo cáo cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép về kết quả thực hiện các biện pháp quy định tại khoản 1 Điều này”. Đại biểu nhận thấy quy định trên chưa trùng khớp với quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.

Luật Bảo vệ môi trường yêu cầu trước khi cấp phép phải có đánh giá tác động môi trường và phê duyệt kết quả đánh giá tác động môi trường để cấp giấy phép môi trường, giấy phép này gồm có 7 giấy phép con, không chỉ có giải pháp bảo vệ, cải tạo, phục hồi môi trường như khoản 1, Điều 45 dự thảo Luật quy định. Do đó, đề nghị rà soát, đối chiếu với Luật Bảo vệ môi trường để quy định cho thống nhất giữa hai Luật.

          Tin, ảnh: Ái Thi

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN