Chính sách miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp, VAT hợp lòng dân, thúc đẩy phát triển kinh tế

23/05/2025 - 20:19

BDK.VN - Chiều 22-5-2025, Quốc hội thảo luận tại Tổ. Tham gia thảo luận tại Tổ số 9, đại biểu Nguyễn Trúc Sơn - Phó chủ tịch Thường trực UBND tỉnh, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bến Tre tham gia góp ý cho 3 nội dung.

Đại biểu Nguyễn Trúc Sơn, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bến Tre phát biểu tại phiên thảo luận Tổ.

Thứ nhất, đối với chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Quy Nhơn - Pleiku, đại biểu rất đồng tình về mặt chủ trương đầu tư phát triển hạ tầng cho hai tỉnh Gia Lai, Bình Định, sắp tới hai tỉnh này sáp nhập thành một tỉnh mới có quy mô khá lớn nên việc đầu tư xây dựng tuyến đường bộ cao tốc là rất cần thiết. Về chủ trương đầu tư, đây là một dự án rất lớn, vốn đầu tư hơn 1,7 tỷ USD (43.700 tỷ đồng), dự án chưa có trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, nếu được đầu tư, đây là một dự án rất đặc biệt, góp phần phát triển kinh tế xã hội khu vực miền Trung - Tây Nguyên.

Tuy nhiên, về đề xuất áp dụng cơ chế, chính sách đặc thù, tại khoản 4, Điều 4 dự thảo Nghị quyết có quy định: “4. Dự án không phải thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối nguồn vốn theo quy định của Luật Đầu tư công”. Đại biểu cho rằng đề xuất cơ chế này không phù hợp với Luật Đầu tư công hiện hành. Nguyên tắc cơ bản của dự án đầu tư công là phải được thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn và được cân đối trong kế hoạch đầu tư công trung hạn. Hiện dự án này quy mô lớn, chưa có trong kế hoạch và chưa được thẩm định nguồn và khả năng cân đối mặc dù Chính phủ có chỉ ra sử dụng các nguồn trung hạn, tăng thu.... thông thường áp dụng cơ chế như thế là trái luật và không được phép theo hướng dẫn trong công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực của Trung ương. Đại biểu đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cần giải trình thêm cho thuyết phục trước khi Quốc hội thông qua chủ trương. Vì vậy, đại biểu đề nghị Quốc hội hết sức cân nhắc cho phép các cơ chế hợp lý được đề xuất tại Khoản 4, Điều 4 dự thảo nghị quyết.

Thứ hai, đối với dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về giảm thuế giá trị gia tăng. Điều 1 dự thảo Nghị quyết quy định: “1. Giảm 2% thuế suất thuế giá trị gia tăng, áp dụng đối với các nhóm hàng hóa, dịch vụ đang áp dụng mức thuế suất 10% (còn 8%), trừ một số nhóm hàng hóa, dịch vụ sau: Viễn thông, hoạt động tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản, sản phẩm kim loại, sản phẩm khai khoáng (trừ than), sản phẩm hàng hóa và dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (trừ xăng). 2. Thời gian áp dụng giảm thuế giá trị gia tăng 2% quy định tại khoản 1 Điều này từ ngày 1-7-2025 đến hết ngày 31-12-2026”.

 Đại biểu bày tỏ sự ủng hộ đối với chủ trương giảm thuế cho doanh nghiệp để giúp kích cầu, tái đầu tư, sản xuất cho doanh nghiệp, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp. Trong 3 năm liên tục, Quốc hội đã giảm 2% VAT. Năm 2025, Quốc hội cũng đã quyết  giảm 2% thuế VAT cho 6 tháng đầu năm, nay tiếp tục giảm thêm 18 tháng nữa, kéo dài đến hết 2026. Điều này cũng ảnh hưởng phần nào đến nguồn thu của các tỉnh, thành. Vì vậy, đề nghị Bộ Tài chính có đánh giá và cân nhắc giảm, cấp bù dự toán ngân sách đã giao cho các tỉnh, thành phố năm 2025 (đầu năm 2025 giao dự toán thu bao gồm khoản thu thuế VAT 10%), có giải pháp cân đối hỗ trợ cho các tỉnh chưa tự cân đối được ngân sách. Về việc tiếp tục giảm 2% thuế VAT cho cả năm 2026, nhìn chung là ủng hộ nhưng hiện tại kế hoạch kinh tế - xã hội, kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm 2026-2030 và kế hoạch tài chính 3 năm vẫn chưa ban hành, đại biểu đề nghị Quốc hội và Chính phủ cần hết sức cân nhắc, đảm bảo cân đối nguồn thu, chi ngân sách và đầu tư phát triển, chính sách tài khóa hài hòa. Bất kỳ chính sách miễn, giảm nào cũng phải đánh giá tác động.

Thứ ba, đối với dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về kéo dài thời hạn miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp, đại biểu cho rằng về mặt chủ trương, đây là một chính sách rất hợp lòng dân. Thời gian kéo dài trong 5 năm bắt đầu từ ngày 1-1-2026 và kết thúc vào ngày 31-12-2030.

Tuy nhiên, dự thảo Nghị quyết quy định rất ngắn gọn, chỉ nêu thời gian áp dụng, cần ràng buộc thêm 1 số nguyên tăc, tiêu chí. Qua nghiên cứu dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Nghị quyết gửi kèm theo hồ sơ trình, tại Khoản 1, Điều 1 về đối tượng được miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp có quy định: “Miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp phục vụ nghiên cứu, sản xuất thử nghiệm; diện tích đất trồng cây hàng năm có ít nhất một vụ lúa trong năm; diện tích đất làm muối.

 Diện tích đất trồng cây hàng năm có ít nhất một vụ lúa trong năm bao gồm diện tích đất có quy hoạch, kế hoạch trồng ít nhất một vụ lúa trong năm hoặc diện tích đất có quy hoạch, kế hoạch trồng cây hàng năm nhưng thực tế có trồng ít nhất một vụ lúa trong năm” .

Đại biểu cho rằng trong thực tế, có những diện tích đất trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi là đất trồng lúa nhưng trên thực tế người dân đã chuyển sang trồng cây hàng năm, cây lâu năm, thậm chí đất có yếu tố xây dựng nhà ở, nhưng trong sổ sách, quản lý đất đai chính quyền địa phương cũng chưa cập nhật, điều chỉnh. Các trường hợp này nếu nhìn trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có thể được miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp vì là đất lúa, như vậy là không công bằng và cần được làm rõ trong quy định miễn thuế. Ngoài ra, thực tế thời gian qua cũng có nhiều tổ chức, cá nhân chuyển nhượng đất lúa nhưng không đưa vào sản xuất mà bỏ hoang, hoặc chuyển sang sản xuất khác. Đại biểu đề nghị Chính phủ chỉ đạo chính quyền địa phương thống kê, làm rõ và khi miễn thuế phải loại trừ và áp dụng đúng đối tượng; các nghị định, văn bản hướng dẫn quy định rõ đối tượng được hưởng chính sách, chỉ miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho các trường hợp sử dụng đất đúng mục đích nhằm khuyến khích người dân bảo vệ đất trồng lúa, khuyến khích sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, chất lượng cao. Văn bản hướng dẫn càng rõ thì chính  quyền địa phương càng dễ triển khai thực hiện.

Tin, ảnh: Ái Thi

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN