Đề xuất phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam
13/11/2024 - 15:33
BDK.VN - Căn cứ Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, các Nghị quyết, Kết luận của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024, Chính phủ đã có Tờ trình số 685/TTr-CP ngày 19-10-2024 trình Quốc hội xem xét quyết định chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam, và nội dung này được trình với Quốc hội vào sáng 13-11-2024.
Hình ảnh mô phỏng Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam.
Theo Tờ trình của Chính phủ, việc sớm đầu tư đường sắt tốc độ cao (ĐSTĐC) trên trục Bắc - Nam là rất cần thiết bởi vì hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông hiện đại là nền tảng của một nước công nghiệp hiện đại, thu nhập cao, trong đó đường sắt là phương thức quan trọng trên các hành lang có khối lượng lớn.
Hành lang kinh tế Bắc - Nam có vai trò quan trọng bậc nhất của cả nước; kết nối các hành lang Đông - Tây, các cực tăng trưởng để tạo động lực lan tỏa phát triển kinh tế - xã hội. Với ưu thế vận tải khối lượng lớn, nhanh, tin cậy, thuận tiện, tuyến ĐSTĐC trên trục Bắc - Nam sẽ ‘‘rút ngắn” khoảng cách giữa các địa phương, vùng miền, góp phần giảm áp lực tập trung dân số, quá tải hạ tầng ở các đô thị lớn; tái cấu trúc, phân bố lại đô thị, dân cư, mở ra không gian phát triển kinh tế, khai thác có hiệu quả nguồn lực từ quỹ đất; thúc đẩy phát triển kinh tế, dịch vụ, du lịch; tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Dự báo nhu cầu vận tải bằng đường sắt trên hành lang Bắc - Nam đến năm 2050 cần đảm nhận khoảng 18,2 triệu tấn hàng và khoảng 122,7 triệu lượt khách. Với nhu cầu vận tải này, tuyến đường sắt hiện hữu sau khi cải tạo, nâng cấp cơ bản đáp ứng nhu cầu vận tải hàng hóa. Tuy nhiên, nhu cầu vận tải hành khách sẽ thiếu hụt lớn.
Theo kinh nghiệm quốc tế, để giải quyết nhu cầu vận tải lớn về hành khách việc lựa chọn đầu tư tuyến ĐSTĐC là thích hợp, hiệu quả. Theo nghiên cứu của Hiệp hội đường sắt quốc tế, ĐSTĐC là phương thức vận tải bền vững, an toàn, thân thiện với môi trường, tiết kiệm tài nguyên; đồng thời, do tuyến ĐSTĐC phần lớn đi trên cao nên góp phần hiệu quả để ứng phó với biến đổi khí hậu, hạn chế chia cắt cộng đồng.
Tuyến ĐSTĐC sử dụng năng lượng điện là giải pháp tối ưu để chuyển đổi phương thức vận tải góp phần đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 như cam kết tại Hội nghị COP26.
Với mục tiêu xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao nhằm đáp ứng nhu cầu vận tải, góp phần tái cơ cấu thị phần vận tải trên hành lang Bắc - Nam một cách tối ưu, bền vững, tạo tiền đề, động lực cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Dự án có phạm vi điểm đầu tại TP. Hà Nội (ga Ngọc Hồi); điểm cuối tại TP. Hồ Chí Minh (ga Thủ Thiêm). Tổng chiều dài chính tuyến khoảng 1.541km. Dự án đi qua địa phận 20 tỉnh, thành phố gồm: Hà Nội, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, TP. Hồ Chí Minh.
Với quy mô đầu tư xây dựng mới tuyến đường sắt đôi, khổ 1.435mm, tốc độ thiết kế 350 km/h, tải trọng 22,5 tấn/trục; xây dựng 23 ga khách, 5 ga hàng; đường sắt tốc độ cao vận chuyển hành khách, đáp ứng yêu cầu lưỡng dụng phục vụ quốc phòng, an ninh, có thể vận tải hàng hóa khi cần thiết. Dự án được đầu tư theo hình thức đầu tư công.
Dự án áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại, bảo đảm yêu cầu an toàn, đồng bộ, chất lượng và hiệu quả. Khuyến khích ứng dụng công nghệ cao trong tổ chức thi công, thích ứng với biến đổi khí hậu. Áp dụng công nghệ đường sắt chạy trên ray được sử dụng phổ biến trên thế giới; công nghệ đoàn tàu sử dụng động lực phân tán EMƯ; thông tin tín hiệu tương đương hệ thống đang sử dụng tại các quốc gia vận hành khai thác đường sắt tốc độ cao.
Sơ bộ tổng nhu cầu sử dụng đất của Dự án khoảng 10.827ha, trong đó có: Đất trồng lúa khoảng 3.655ha, đất lâm nghiệp khoảng 2.567ha và các loại đất khác theo quy định của pháp luật về đất đai khoảng 4.605ha. Số người dân tái định cư khoảng 120.836 người.
Tổng mức đầu tư sơ bộ của Dự án là 1.713.548 tỷ đồng. Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước bố trí trong các kỳ kế hoạch đầu tư công trung hạn. Tiến độ thực hiện từ năm 2025, phấn đấu cơ bản hoàn thành vào năm 2035.
Dự án được áp dụng cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt, đó là: Trong quá trình thực hiện Dự án, Thủ tướng Chính phủ được quyết định sử dụng các nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, vốn ODA, vốn vay ưu đãi nước ngoài và các nguồn vốn trong nước hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
Dự án được bố trí vốn qua nhiều kỳ kế hoạch đầu tư công trung hạn, mức vốn bố trí mỗi kỳ trung hạn phù hợp với tiến độ thực hiện Dự án. Thủ tướng Chính phủ quyết định điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm vốn ngân sách trung ương giữa các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương để bố trí vốn cho Dự án trong trường hợp không thay đổi tổng mức vốn trung hạn và hằng năm đã được Quốc hội quyết định và báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp gần nhất.
Dự án không phải thực hiện việc thẩm định khả năng cân đối vốn như quy định của Luật Đầu tư công; Chính phủ bố trí đủ nguồn vốn theo tiến độ của Dự án và báo cáo Quốc hội quyết định trong từng kỳ kế hoạch đầu tư công trung hạn.
Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Văn Thắng.
Trường hợp cần thiết, cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư quyết định việc phân chia Dự án thành các dự án thành phần khi phê duyệt dự án đầu tư. Việc phân chia dự án thành phần không phải áp dụng theo quy định của pháp luật về xây dựng đối với việc phân chia dự án thành phần.
Chủ đầu tư được lập thiết kế kỹ thuật tổng thể (FEED) thay cho thiết kế cơ sở trong Báo cáo nghiên cứu khả thi Dự án. Sau khi Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư, Dự án được bổ sung danh mục trong kế hoạch đầu tư công trung hạn và được giao vốn kế hoạch đầu tư công hằng năm để thực hiện một số nhiệm vụ sao cho đến khi dự án đầu tư được phê duyệt.
Ngoài ra, Dự án được áp dụng cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt trong một số nội dung như: Phát triển, khai thác quỹ đất và giá trị tăng thêm từ đất vùng phụ cận ga đường sắt tốc độ cao; trong khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường phục vụ Dự án; về bãi đổ chất thải rắn xây dựng; phát triển khoa học, công nghệ và tuyển dụng đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực cho Dự án; về phát triển công nghiệp và chuyển giao công nghệ; về thẩm quyền quyết định điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án, điều chỉnh Dự án; công trình nhà ga đường sắt tốc độ cao không thuộc đối tượng phải thi tuyển phương án kiến trúc; về công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng; về chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác và tạm sử dụng rừng; về định mức, khoản mục chi phí; cơ chế, chính sách bảo đảm phòng, chống lãng phí, tham nhũng, tiêu cực: Chính phủ được ban hành Nghị định để hướng dẫn triển khai các cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt của Dự án.
Đối với những cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt cần phải được tiếp tục bổ sung sau khi Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư Dự án, trường hợp thuộc thẩm quyền của Quốc hội, trong thời gian giữa các kỳ họp, Quốc hội ủy quyền Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định; trường hợp thuộc thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao Chính phủ quyết định và báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Quốc hội giao Chính phủ chịu trách nhiệm trong việc tổ chức thực hiện, quản lý và khai thác, vận hành Dự án theo đúng Nghị quyết này và ban hành cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt thuộc thẩm quyền bảo đảm Dự án đúng tiến độ, chất lượng công trình.
Quản lý, sử dụng vốn và các nguồn lực tiết kiệm, hiệu quả, phòng chống tham nhũng, tiêu cực; chỉ đạo các Bộ, Ngành bảo đảm nguồn vốn thực hiện Dự án. Chỉ đạo rà soát và chịu trách nhiệm về tính khả thi của nguồn vốn từ rà soát, sắp xếp lại Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025 của Bộ Giao thông vận tải; thông tin đầy đủ để người dân hiểu, đồng thuận về chủ trương đầu tư và hỗ trợ triển khai dự án.
Trong quá trình vận hành khai thác, trên cơ sở đề xuất của các địa phương, Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư bổ sung một số vị trí nhà ga tại các khu đô thị có nhu cầu vận tải lớn. Các địa phương, Tập đoàn Điện lực Việt Nam chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc bảo đảm tiến độ, chất lượng công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng và các Tiểu dự án được giao tổ chức thực hiện. Tiếp tục tái cơ cấu Tổng công ty Đường sắt Việt Nam, xây dựng mô hình quản lý, bảo trì cơ sở hạ tầng; vận hành, khai thác đường sắt tốc độ cao nói riêng và hệ thống đường sắt quốc gia nói chung bảo đảm thống nhất, hiện đại, hiệu quả; tham gia phát triển công nghiệp đường sắt.
Nội dung này sẽ được Quốc hội thảo luận và xem xét thông qua tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV.