Khai thác có hiệu quả tiềm năng kinh tế biển, tạo nội lực phát triển mới

29/12/2011 - 16:04
Ra khơi. Ảnh: H.V

Bến Tre là một trong 13 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Diện tích tự nhiên 2.356km2, với 65km bờ biển và vùng biển đặc quyền kinh tế gần 20.000km2. Với 4 hệ thống sông chính hướng ra biển Đông (cửa Đại, cửa Ba Lai, cửa Hàm Luông và cửa Cổ Chiên) và hệ thống kênh rạch chằng chịt, là các trục giao thông đối ngoại quan trọng gắn kết Bến Tre với các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Với 3 huyện ven biển là Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú, Bến Tre có tiềm năng rất lớn về nuôi trồng và đánh bắt thủy sản. 

Tiềm năng biển và vùng ven biển của Bến Tre khá đa dạng, phong phú; với Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Thạnh Phú quy mô 4.510ha và hệ sinh thái rừng phòng hộ với nhiều loại thực vật phong phú, có vai trò chắn sóng lấn biển, chống xói lở, cố định bãi bồi, là nơi cư trú và cung cấp nguồn thức ăn cho các loài thủy - hải sản, rất thuận lợi cho kinh tế biển phát triển. Với diện tích hơn 50.000ha thích hợp cho nhiều đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao như: tôm sú, nghêu, cua, sò huyết, cá biển các loại và hàng trăm giống loài thủy sinh. Trong những năm qua Tỉnh ủy đã xác định kinh tế thủy sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, trong đó, các nguồn lợi được khai thác từ biển đóng vai trò quan trọng. Vùng biển ở Bến Tre còn là căn cứ cách mạng, có điểm đầu cầu tiếp nhận vũ khí Bắc - Nam thời kháng chiến của tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển, ngày nay có vị trí vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ an ninh Tổ quốc; ở ven biển, các cửa sông có cảnh quan đẹp, ngư dân sống cần cù, chất phát, luôn hướng về biển với nhiều lễ hội truyền thống,... rất thuận lợi cho phát triển du lịch biển kết hợp với du lịch sinh thái, văn hóa, lịch sử.

Thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW (Hội nghị Trung ương 4, khóa X) về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, Tỉnh ủy Bến Tre đã ban hành Chương trình hành động số 11-CTr/TU ngày 19-4-2007, Hội đồng nhân dân tỉnh có Nghị quyết số 01/2009/NQ-HĐND ban hành Đề án “Phát triển toàn diện 3 huyện ven biển tỉnh Bến Tre đến năm 2020” và sau đó UBND tỉnh đã ban hành Quyết định phê duyệt Đề án Phát triển toàn diện 3 huyện ven biển tỉnh Bến Tre, kèm theo đó là 7 chương trình phát triển và dự án ưu tiên nghiên cứu đầu tư để cụ thể hóa, thực hiện. Trong đó, đề ra mục tiêu: “Tập trung đầu tư khai thác có hiệu quả các tiềm năng kinh tế biển, chủ yếu là kinh tế thủy sản, kết hợp phát triển lâm nghiệp; đẩy mạnh công nghiệp chế biến, xuất khẩu thủy sản gắn phát triển nuôi trồng với nâng cao hiệu quả khai thác, đánh bắt; tăng nhanh các ngành dịch vụ, du lịch; kết hợp phát triển kinh tế biển bền vững với bảo đảm an ninh, quốc phòng vùng biển... góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho ngư dân và nhân dân vùng biển. Phấn đấu đến năm 2020, kinh tế biển thực sự trở thành ngành kinh tế chủ lực của tỉnh; giá trị gia tăng từ kinh tế biển chiếm 30% GDP của tỉnh”.

 Qua hơn 4 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, Chương trình hành động của Tỉnh ủy, Nghị quyết HĐND tỉnh và Đề án của UBND tỉnh, đã tạo sự chuyển biến nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của kinh tế biển, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, gắn nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội với giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng và an ninh biên giới biển, khai thác có hiệu quả tiềm năng kinh tế biển kết hợp với bảo vệ môi trường sinh thái. Diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh năm 2011 đạt 42.865ha, trong đó, nuôi tôm thâm canh, bán thâm canh 4.517ha, các loài nhuyễn thể (nghêu, sò...) 4.740ha, sản lượng nuôi đạt 187.000 tấn thủy sản các loại; có 4.330 tàu đánh bắt, trong đó có 1.730 tàu đánh bắt xa bờ, sản lượng đạt 122.000 tấn. Giá trị tăng thêm của ngành thủy sản tăng bình quân 9,8%/năm, chiếm 45% GDP của 3 huyện ven biển. Cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất chuyển dịch theo hướng khai thác tiềm năng, lợi thế của từng vùng sinh thái; gắn sản xuất với thị trường tiêu thụ, tăng dần tỷ trọng công nghiệp chế biến các sản phẩm có thế mạnh từ nông sản, thủy sản. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được quan tâm đầu tư xây dựng: Cảng cá Ba Tri, Bình Đại đi vào hoạt động ổn định, vừa đưa vào hoạt động Cảng cá An Nhơn (Thạnh Phú), Khu neo đậu, tránh trú bão của tàu đánh cá ở Bình Đại; một số dự án chỉnh trang, phát triển đô thị đang được triển khai xây dựng góp phần làm thay đổi diện mạo các huyện biển; các công trình giao thông quan trọng được đưa vào sử dụng (ĐT 883, 886, đường Cồn rừng, Thạnh Phú; bến phà Tam Hiệp, Bình Đại; đê biển, Ba Tri,…) và các công trình thủy lợi, nước sạch được đầu tư, đã phát huy khá tốt nhiệm vụ ngăn mặn, trữ ngọt. Lĩnh vực văn hóa - xã hội có bước phát triển tốt, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng lên. An ninh - quốc phòng được củng cố, an ninh tuyến biên giới được giữ vững, trật tự xã hội vùng ven biển và trên biển được đảm bảo...

Tuy nhiên, do ở cuối nguồn nên môi trường ở cửa sông, ven biển bị ô nhiễm, ảnh hưởng trực tiếp đến hệ sinh thái, gây khó khăn đến việc nuôi trồng và khai thác nguồn lợi thủy sản; do tác động của biến đổi khí hậu, nhất là nước biển dâng ngày càng rõ nét, nên tình hình xâm nhập mặn hàng năm càng sâu vào đất liền, triều cường, bão cuối mùa... luôn là mối đe dọa đến sản xuất và đời sống, sinh hoạt của nhân dân. Hoạt động nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ về phát triển kinh tế biển chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, chưa có những dự báo chuẩn xác về nguồn lợi, diễn biến môi trường và thiên tai từ biển... nên kinh tế biển phát triển còn chậm, hiệu quả chưa cao, chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu đề ra. Trình độ học vấn của ngư dân còn thấp, khả năng tiếp thu tiến bộ khoa học, công nghệ hạn chế; ý thức sản xuất cộng đồng chưa cao; vẫn còn tình trạng khai thác gần bờ, sử dụng các công cụ, phương tiện gây ảnh hưởng xấu đến nguồn lợi thủy sản, môi trường nuôi và việc tái tạo nguồn lợi thủy sản. Diện tích mặt nước vùng ven biển, cửa sông chưa được khai thác tốt; giá trị sản xuất công nghiệp chế biến, kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt thấp, chưa tương xứng với nguồn nguyên liệu sẵn có; các ngành dịch vụ còn nhỏ lẻ, nhiều tiềm năng về du lịch biển chưa được đầu tư khai thác. Ngoài ra, do địa hình bờ biển dài, chia cắt, nên việc bảo vệ an ninh, chống xâm nhập vào đất liền là vấn đề đáng quan tâm.

Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa X), các chương trình, đề án cụ thể hóa của tỉnh, nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng kinh tế biển, tạo nội lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tỉnh nhà; trong thời gian tới cần quan tâm thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau: 

Một là, đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản, xác định trữ lượng, khả năng cho phép khai thác các loại tài nguyên rừng, khoáng sản, nguồn lợi thủy sản; dự báo sự biến đổi dòng chảy, bãi bồi, cồn nổi, diễn biến môi trường, tình hình xâm nhập mặn, triều cường, mưa bão... làm cơ sở cho việc chỉ đạo, điều hành và xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế biển và khuyến cáo nhân dân có ý thức trong việc khai thác tiềm năng biển. Xây dựng và triển khai quy hoạch chi tiết vùng nuôi thủy sản; bảo vệ và phát triển rừng đến năm 2020; phát triển hạ tầng, phát triển đô thị và phát triển du lịch 3 huyện biển... nhằm phục vụ phát triển kinh tế biển. Xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế biển phải gắn với thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân trên địa bàn, xây dựng xã, ấp an toàn, tạo thế liên hoàn 3 huyện biển, sẵn sàng chiến đấu cao. 

Hai là, chỉ đạo tiếp tục quản lý chặt chẽ và khai thác tốt các nguồn lợi kinh tế biển theo hướng tổ chức liên kết sản xuất cộng đồng, cùng nhau tự quản. Đặc biệt, 3 huyện ven biển cần xem việc trồng rừng là vấn đề đặc biệt quan trọng gắn với ứng phó biến đổi khí hậu, nước biển dâng, bảo vệ đa dạng sinh học. Thực hiện tốt việc bảo vệ nguồn lợi thủy sản, hạn chế việc khai thác thủy sản ven bờ, hỗ trợ chuyển đổi nghề đối với ngư dân đánh bắt ven bờ. Củng cố mô hình tổ hợp tác, hợp tác xã thủy sản theo hướng đa dạng hóa các hình thức hợp tác theo ngành nghề, loại hình, gắn sản xuất với chế biến, kinh doanh và cung ứng dịch vụ, nhằm tạo mối liên kết chặt chẽ giữa các thành phần kinh tế cùng nhau đầu tư phát triển kinh tế biển. Có chính sách khuyến khích ngư dân nâng cấp, cải hoán tàu, trang bị máy móc hiện đại để phát huy hiệu quả đánh bắt xa bờ, tổ chức lại lực lượng đánh bắt thủy sản theo hướng thành lập các tổ, đội liên kết thủy sản, đội tàu xung kích với các trang, thiết bị hỗ trợ tìm kiếm cứu nạn trên biển để tự bảo vệ. Đồng thời làm tốt công tác tuyên truyền cho ngư dân vừa phải nâng cao ý thức cảnh giác, bảo vệ vùng biển nước ta, vừa tôn trọng chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển của các nước láng giềng, không vì lợi nhuận kinh tế mà vi phạm vùng biển nước bạn, ảnh hưởng không tốt đến công tác đối ngoại.

Ba là, đẩy mạnh phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu; hướng lâu dài, nghiên cứu phát triển ngành công nghiệp đóng tàu gắn với việc hình thành, phát triển các đô thị biển. Đầu tư xây dựng một số cụm công nghiệp, làng nghề cá ở các huyện ven biển; khuyến khích đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm và hạn chế gây ô nhiễm môi trường; phát triển những sản phẩm mới có giá trị gia tăng lớn, giá trị xuất khẩu cao... Khuyến khích phát triển các loại hình dịch vụ hậu cần nghề cá, đầu tư xây dựng các bến cá, chợ chuyên kinh doanh thủy sản, xây dựng các làng cá thành trung tâm thị trấn, thị tứ của 3 huyện biển. Xây dựng hệ thống giao thông, điện, thông tin liên lạc, cung cấp nước sạch..., nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế biển, vùng ven biển, nhất là các khu, cụm công nghiệp; khu du lịch ven biển và hệ thống thông tin liên lạc giữa đất liền với tàu thuyền trên biển. Đầu tư xây dựng khu du lịch biển Thừa Đức, Thới Thuận (Bình Đại), Cồn Hố (Ba Tri), khu bảo tồn thiên nhiên, Dự án Bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị đường Hồ Chí Minh trên biển (Thạnh Phong - Thạnh Hải, Thạnh Phú)... hình thành các khu nghỉ mát, điểm du lịch sinh thái, khu đô thị biển..., để khai thác tốt các tuyến du lịch biển của tỉnh.

Bốn là, đẩy mạnh đầu tư kết cấu hạ tầng, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế biển gắn với chủ động phòng, chống biến đổi khí hậu, nước biển dâng và xây dựng nông thôn mới. Hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi phục vụ các vùng nuôi thủy sản tập trung; hình thành trục giao thông nối liền 3 huyện ven biển; hoàn chỉnh và đưa vào sử dụng, khai thác các tuyến đê biển,  khu neo đậu, tránh trú bão cho tàu thuyền, nâng cấp các cảng cá ở 3 huyện ven biển… Kêu gọi, thu hút đầu tư xây dựng các công trình, dự án xây dựng các khu đô thị, khu dân cư lấn biển; sử dụng năng lượng gió… Trong vận động xây dựng công trình của địa phương, cần kết hợp khai thác các nguồn lực từ các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình, dự án hỗ trợ có mục tiêu được phân bổ trên từng địa bàn (chương trình giảm nghèo, chương trình quốc gia về nước sạch nông thôn, chương trình phát triển đường giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng, kiên cố hóa kênh mương...), để vừa triển khai xây dựng công trình một cách đồng bộ, phát huy hiệu quả, vừa đạt tiêu chí về xây dựng xã nông thôn mới, gắn với việc xây dựng các khu đô thị mới, đô thị biển một cách hợp lý với cả vùng.

 Năm là, triển khai các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế biển. Tập trung thực hiện có hiệu quả Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Quyết định 1956 của Thủ tướng Chính phủ, tạo điều kiện cho ngư dân tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao hiệu quả nuôi trồng, đánh bắt, chế biến thủy sản, đóng mới và sửa chữa tàu thuyền. Đa dạng hóa các hình thức đào tạo, đào tạo lại, từng bước nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật, doanh nhân và công nhân lành nghề cho phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế biển trong từng giai đoạn; có chính sách thu hút nhân tài, nhất là cán bộ khoa học về nuôi trồng, chế biến thủy sản... Quan tâm chỉ đạo nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề cho con em ngư dân vùng biển để tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật và nâng cao năng lực quản lý, sản xuất cho ngư dân theo hướng cộng đồng. 

Và cuối cùng, để kinh tế biển thực sự trở thành ngành kinh tế chủ lực của tỉnh, các cấp ủy, các ngành phải xem lãnh đạo phát triển kinh tế biển là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định đến tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Vì vậy, phải thường xuyên tăng cường chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc thực hiện, tập trung lãnh đạo xây dựng hệ thống chính trị ở địa bàn khu dân cư ven biển thật sự trong sạch, vững mạnh; xây dựng, thành lập tổ chức Đảng, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn trong lực lượng tự vệ biển, tổ hợp tác, hợp tác xã, đội khai thác thủy sản xa bờ… để làm nòng cốt trong việc tổ chức sản xuất, kinh doanh, sẵn sàng ứng phó với thiên tai, địch họa xảy ra; tạo sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các ngành chức năng tỉnh với các huyện biển; đặc biệt là phát huy vai trò, nguồn lực to lớn của nhân dân để khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh kinh tế biển, tạo nội lực thúc đẩy kinh tế tỉnh nhà không ngừng phát triển, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX và Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.

NGUYỄN THÀNH PHONG

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN