Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhiều đảng viên cộng sản không may sa vào tay giặc. Chúng tìm mọi cách từ tra tấn dã man đến dụ dỗ mua chuộc để đồng chí ta đầu hàng, khai báo, phản bội Đảng. Nhưng những chiến sĩ cộng sản ấy kiên cường, bất khuất giữ vững khí tiết là những tượng đài bất tử, sống mãi trong lòng nhân dân từ trước đến nay và từ nay về sau.
Đồng chí Nguyễn Thanh Trà là một tấm gương tiêu biểu về khí phách người cộng sản trước đòn roi tra tấn và thủ đoạn mua chuộc thâm độc của kẻ thù. Đồng chí sinh năm 1918, ở xã Sơn Hòa (Châu Thành), tham gia phong trào yêu nước khi còn là học sinh. Đồng chí được kết nạp vào Đảng (lúc đó là Đảng Cộng sản Đông Dương) năm 1935 và đến tháng 3-1945 được vào Tỉnh ủy. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đồng chí được giao nhiệm vụ Phó Trưởng Ty Công an tỉnh, phụ trách lực lượng Cảnh sát nên đồng bào quen gọi là Cò Trà. Năm 1951, đồng chí được phân công làm Phó Bí thư Thị xã ủy Bến Tre. Trong một trận địch truy lùng cơ sở cách mạng, đồng chí bị địch bắt. Chúng biết đồâng chí là một cán bộ lãnh đạo trong Tỉnh ủy, có trình độ học vấn khá, lại sinh trưởng trong gia đình trung lưu, nên tìm cách dụ dỗ, mua chuộc, hứa hẹn dành cho một chức quan có bổng lộc cao sang. Đồng chí Trà một mực từ chối. Thấy dụ dỗ không kết quả, bọn địch dùng mọi cực hình tra tấn dã man, nhưng cũng không thu được thông tin gì. Trong nhà giam, kiệt sức vì bị đòn roi, biết không thể sống, nên đồng chí đã dùng mảnh thủy tinh rạch bụng lấy máu viết lên tường nhà giam dòng chữ: “Hồ Chí Minh muôn năm”, “Việt Nam độc lập muôn năm”. Kẻ địch phát hiện, băng bó vết thương, nhưng đồng chí bứt băng, lôi ruột mình ném vào mặt bọn lính ngục rồi tắt thở. Hôm ấy là ngày 24 tháng Giêng năm Tân Mão - 1952 (theo Địa chí Bến Tre). Đồng chí Cò Trà đã hy sinh vào giai đoạn cuộc kháng chiến chống Pháp sắp kết thúc, nhưng tấm gương sáng ngời của đồng chí được nhiều chiến sĩ cộng sản khác noi theo trong cuộc kháng chiến chống Mỹ sau này.
Đồng chí Nguyễn Văn Duy (Năm Duy) quê quán xã Lương Quới (Giồng Trôm). Tháng 8-1945, đồng chí lãnh đạo Đội Thanh niên Tiền phong xã Lương Hòa cướp chính quyền thành công và được vinh dự kết nạp vào Đảng. Từ đó, đồng chí cùng với Đảng bộ xã Lương Hòa thực hiện các nhiệm vụ khó khăn do Huyện ủy Giồng Trôm giao. Năm 1954, đồng chí được vào Huyện ủy, phụ trách Chi bộ 3 xã: Lương Hòa, Lương Quới, Châu Hòa. Tháng 4-1956, bị dọ thám chỉ điểm, đồng chí bị công an ngụy ở quận Giồng Trôm bắt tại nơi trú ẩn. Chúng đưa đồng chí về giam ở Đồn Lương Quới và tìm mọi cách mua chuộc, dụ dỗ, nhưng đồng chí kiên quyết giữ vững khí tiết. Chúng đưa mẹ đồng chí - là bà Trần Thị Duyên, đến buộc mẹ phải khuyên con khai báo. Nhưng mẹ Duyên dặn con: “Con tát mương thì phải tát cho cạn mương thì mới bắt được tôm cá, nếu con bỏ giữa chừng thì sẽ không được gì hết”. Sau đó giọng mẹ trầm xuống: “Con đã đi thì phải đi cho đến cùng”. Hiểu được ý mẹ, đồng chí Năm Duy nói: “Má yên tâm, con sẽ xứng đáng là con của má”. Địch đưa tên Hai Đủ - sĩ quan tâm lý chiến, trước đây là bạn học của Năm Duy đến để thuyết phục. Đồng chí Năm Duy trả lời: “Tao theo cách mạng để giải phóng cho đồng bào khỏi áp bức, kiềm kẹp, không tham tiền để làm tay sai cho giặc”. Chiều ngày 26-4-1956, bọn chúng giải đồng chí lên Khám Lá Bến Tre. Chúng bắt vợ đồng chí - là chị Lê Thị Xướng, cùng đứa con nhỏ ngồi theo xe bên cạnh đồng chí giữa hai hàng lính, súng lăm lăm. Bọn chúng muốn dùng tình cảm vợ con để lung lạc tinh thần người chiến sĩ cộng sản. Nhưng chúng thất bại vì suốt chặng đường, đồng chí không nói lời nào mà chỉ truyền cho vợ niềm tin qua ánh mắt cương nghị. Lên tới Khám Lá Bến Tre, chúng tiếp tục dụ dỗ, mua chuộc, nhưng đồng chí chỉ một mực trả lời: “Tao chiến đấu để giải phóng đồng bào khỏi bị áp bức, bóc lột, đất nước khỏi nô lệ ngoại bang, chứ không tham tiền làm tay sai sát hại dân lành”. Biết không thể dụ dỗ, mua chuộc, chúng đưa đồng chí về Lương Hòa để thủ tiêu. Tối 27-4-1956, bị bịt mắt đẩy lên xe, đồng chí kháng cự quyết liệt. Chúng chích thuốc làm liệt hai chân, vì sợ đồng chí chạy thoát. Đến đầu lộ Lương Hòa, đồng chí la lớn: “Bọn bây có bắn tao thì bắn tại đây, đừng giải đi đâu rồi vu khống”. Chúng lôi đồng chí ra giữa đường gần Cầu Ván - ấp Hòa Trị, bắn vào mang tai, máu ra ướt đẫm mặt. Nghe tiếng súng nổ, nhân dân trong vùng đốt đuốc, đánh mỏ kéo đến. Đồng chí cố gắng nói với bà con là mình không khai báo gì hết, bà con yên tâm. Bà con hãy đưa đồng chí lên Ủy hội Quốc tế đấu tranh vạch tội ác bọn phá hoại Hiệp định Geneve. Đồng bào khiêng đồng chí đến chợ Lương Hòa cho ông Mười Xuân chữa trị. Nhưng liệu sức mình không sống nổi, nên đồng chí bảo ông Mười để thuốc đó trị bệnh cho dân. Cùng lúc, bọn lính Bảo an ở Giồng Trôm kéo lên, bọn dân vệ do Xã trưởng Phán và Ách Bá cầm đầu ập đến. Thấy đồng chí còn sống, bọn chúng dùng cây dầu vuông đánh đập rất dã man. Đồng chí Nguyễn Văn Duy vẫn cố sức hô: “Hồ Chí Minh muôn năm”, “Nước Việt Nam muôn năm” rồi trút hơi thở cuối cùng. Nhân dân xã Lương Hòa, Lương Quới và một số xã lân cận đưa tang liệt sĩ Nguyễn Văn Duy thành đoàn dài cả cây số, biến đám tang thành cuộc biểu tình tố cáo tội ác kẻ thù và tiếc thương người đảng viên kiên trung bất khuất.
Cũng trên mảnh đất Giồng Trôm, trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nhân dân truyền miệng kể nhau nghe câu chuyện về liệt sĩ Đỗ Quang Phát trước khi chết còn bắt quân thù đền tội. Năm 1936, đồng chí Đỗ Quang Phát được kết nạp vào Đảng và trở thành Bí thư chi bộ đầu tiên của xã Thạnh Phú Đông. Ngày 11-10-1951, trên đường đi công tác, chẳng may lọt vào ổ phục kích của giặc, đồng chí bị giải về bót chợ Cái Mít và sau đó chuyển lên bót Bến Tranh (xã Phước Long). Bị địch đánh đập tàn nhẫn nhưng đồng chí vẫn không khai báo cơ sở cách mạng. Bất ngờ, khi tỉnh lại, đồng chí gọi tên địch canh gác lại và nói với bọn chúng nơi chôn súng và tài liệu. Bọn giặc hí hửng tưởng đã làm mềm lòng người chiến sĩ cộng sản. Chúng cho một Trung đội lính dẫn đồng chí về nhà để lấy tài liệu. Đến nhà, đồng chí bảo: “Súng và tài liệu tôi chôn trong buồng, các ông vô đó mà lấy”. Bọn chúng đào xới nát đất không tìm được gì nên hằn học đe dọa. Đồng chí bình tĩnh trả lời: “Các ông mở trói để tôi vào lấy cho”. Sau đó, hai tên dẫn đồng chí vào buồng còn các tên khác tản ra ngoài sân canh gác. Vừa bước tới cửa buồng, đồng chí rút con dao nhọn dấu ở kẹt vách đâm tên chỉ huy giặc đổ ruột. Tên lính khác nhảy vô ôm vật đồng chí. Hai bên giằng co quyết liệt. Nghe tiếng động bọn lính gác phía ngoài tràn vô nhà xả súng bắn đồng chí Phát. Một tên địch cũng bị trúng đạn chết tại chỗ. Đồng chí Phát anh dũng hy sinh. Đó là ngày 13-10-1951 - ngày ghi mãi vào lịch sử Đảng bộ Giồng Trôm một sự kiện đau thương và bất khuất.
Còn nữa, trên mảnh đất ba dải cù lao anh hùng đầy máu và nước mắt rất nhiều những chiến sĩ cộng sản chẳng may sa vào tay giặc thà chết vinh hơn sống nhục. Ở xã Hiệp Hưng (Giồng Trôm), vào những năm 50, đồng chí Bí thư Chi bộ Trần Văn Lộ đã lập nhiều thành tích trừ gian diệt ác nên địch tìm mọi cách để giết đồng chí. Năm 1957, bọn địch - do cảnh sát Hạnh chỉ huy đã bao vây bắn đồng chí Lộ. Địch bắt và đưa đồng chí về bót xã, chúng dụ dỗ, mua chuộc nhưng không làm đồng chí lung lay ý chí sắt son. Đồng chí đã anh dũng hy sinh trước mặt kẻ thù.
Liệt sĩ Đồng Văn Dẫn là một cán bộ Đại đội của Địa phương quân huyện Thạnh Phú. Trong trận tấn công Chi khu quân sự địch ở thị trấn Thạnh Phú năm 1967, trong lúc đánh địch đi tiếp viện, do lực lượng địch quá đông, đồng chí bị chúng bao vây bắt sống. Chúng đánh đập, tra tấn dã man nhưng đồng chí không khai báo mà đanh thép tố cáo kẻ thù, đả đảo Mỹ ngụy. Chị Nguyễn Thị Ra - một nhân chứng trong trận đó, kể lại: sự việc xảy ra cách đây 44 năm nhưng mỗi khi nhắc lại, hình ảnh anh Tư Hy (đồng chí Dẫn) vẫn hiện lên rõ nét trong tâm trí tôi. Mặc dù bị địch bắt trói nhưng gương mặt anh vẫn tỉnh táo, mắt nhìn thẳng vào quân thù mà chửi mắng chúng những câu đanh thép với khí thế rất hiên ngang.
Đảng viên Nguyễn Thị Mai, ở xã Vĩnh Thành (Chợ Lách) được phân công làm công tác binh vận. Trong 2 năm 1972 và 1973, đồng chí đã chỉ đạo cơ sở nội tuyến phối hợp với bộ đội tiêu diệt và bức rút 2 đồn bót địch. Trong trận càn ngày 10-4-1974, địch bắt được đồng chí và buộc đồng chí đi trước dẫn đường vì chúng biết vùng này dày đặc bẫy mìn, lựu đạn gài. Chị dùng mọi lý lẽ để từ chối, nhưng chúng không nghe. Tên chỉ huy ra lệnh: một là chị phải dẫn đường cho chúng, hai là chúng bắn bỏ chị ngay tại chỗ. Trong đầu chị lóe lên một suy nghĩ: phải đổi sinh mạng của chị ít ra hàng chục sinh mạng địch. Vượt qua những bờ mương quanh co, chị bỗng đi chậm lại cốt cho bọn lính dồn cục đông hơn. Bỗng một tiếng nổ xé trời vang lên. Tiếng nổ của một trái mìn được chế tạo từ một đầu đạn pháo 105 ly của du kích gài sẵn đã trừng trị 12 tên lính ác ôn. Chị Mai bị sức ép của trái nổ quật ngã và bị mảnh đạn ở chân. Vừa nhổm dậy, chị bị một loạt đạn địch bắn vào người và hy sinh anh dũng. Nếu đồng chí Nguyễn Thị Mai đổi sinh mạng mình với sinh mạng một tiểu đội ngụy, thì cái chết của đồng chí Đoàn Hùng Chiến (bí danh Sơn) đã bảo vệ cho hàng chục cán bộ lãnh đạo của tỉnh thoát khỏi tay giặc. Đồng chí Sơn là cán bộ nghiên cứu của Văn phòng Tỉnh ủy. Tháng 9-1969, các đồng chí trong Tỉnh ủy công tác ở các nơi về văn phòng đóng ở xã Long Mỹ (Giồng Trôm) để chuẩn bị họp Tỉnh ủy. Ngay ngày hôm đó, bọn lính Tiểu đoàn 2 - Trung đoàn 10 - Sư đoàn 7 ngụy càn vào. Tất cả xuống hầm bí mật để ẩn náu. Địch phát hiện được hầm bí mật của đồng chí Sơn và bắt đồng chí tra tấn dã man. Đồng chí Thanh Nhân ở hầm bí mật gần đó, kể lại: “Tiếng la hét, đánh đập khảo tra người bị bắt dội vào tai tôi rõ từng tiếng”. Rồi tiếng đánh đập bình bịch vang lên. Sau khi không khai thác được gì ở đồng chí Sơn, địch rút quân ra khỏi khu vực căn cứ của Văn phòng Tỉnh ủy. Đến tối mịt, các anh em trong cơ quan mới vớt được xác đồng chí Sơn dưới một mương vườn. Với đầy vết thương khắp cơ thể. Năm đó, liệt sĩ Đoàn Hùng Chiến mới tròn 20 tuổi.
Trong chiến tranh, bao chiến sĩ cộng sản chiến thắng nhục hình tra tấn và thủ đoạn mua chuộc xảo quyệt của kẻ thù. Sự hy sinh của các đồng chí đã chuyển hóa thành sức mạnh tinh thần, hun đúc ý chí chiến đấu của đồng bào, đồng chí làm nên chiến thắng vĩ đại. Sức mạnh tinh thần ấy cũng đang tiếp thêm nghị lực để những cán bộ, đảng viên hôm nay chiến thắng cái xấu, cái ác, sự trì trệ lạc hậu, ngăn chặn sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, không ngừng phấn đấu cho lý tưởng cộng sản.