Khúc ca ngày trở về

28/04/2017 - 07:33

Tay bắt mặt mừng ngày họp mặt tại Bến Tre của thương binh miền Nam.

Cục diện chiến trường miền Nam những năm cuối thập niên 1960, đầu thập niên 1970 rất ác liệt, những thương binh miền Nam buộc lòng phải ra đi để bảo tồn. Những chuyến đi lẻ tẻ nhiều đợt băng rừng, vượt suối, xuyên lửa đạn và cuối cùng gặp nhau ở miền Bắc để an dưỡng và học tập là hồi ức không thể quên. 42 năm từ ngày trở về, mái tóc nay đã bạc, họ cùng hồi tưởng lại quá trình gắn bó sâu đậm trong gian khổ.

Ý chí sinh tồn

Mỗi năm, nhóm thương binh miền Nam an dưỡng ngoài Bắc lại gặp nhau một lần. Buổi họp mặt lần thứ 8 tại Bến Tre, ngày 23-4-2017 diễn ra trong không khí ấm áp, đầy xúc động với khoảng 100 thương binh ở các tỉnh miền Nam tham dự. Tuy thân thể không còn nguyên vẹn nhưng trái tim người lính vẫn chan chứa niềm tin yêu dành cho đồng đội.

Hành trình ra Bắc của thương binh miền Nam xuất phát từ Tây Ninh sang Campuchia, băng sâu vào đất Lào qua Đường 9 - Nam Lào, đến Khe Sanh rồi vượt dãy Trường Sơn tới Quảng Bình để ra đất Bắc. Chuyến đi chủ yếu là đi bộ, băng rừng, vượt núi, có quãng đi bằng thuyền, bằng xe. Ông Lê Hoàng Dũng (sinh năm 1950, thương binh hạng 3/4, người Bến Tre) hồi tưởng và cho đó là “con đường khủng khiếp”, câu ví von của thương binh miền Nam “mười phần chết bảy còn ba mới ra Quảng Bình” cũng ra đời từ đó.

Cứ hai thương binh nhẹ cáng võng một thương binh nặng, đến nỗi tay chân anh em đầy máu. Người sáng mắt dắt người mù mắt, có chị bị địch tiêm chất độc hóa học, mỗi ngày cứ phì ra 5 - 6kg dù không ăn uống gì, đồng đội khiêng mà võng cứ tét do không chịu nổi sức nặng. Đi dọc biên giới họ chịu đựng cái đói kinh khủng, thậm chí da voi cũng ăn, trên đầu máy bay B52 bắn phá liên tục, đầm già lượn lờ thám thính. Bị kẹt lại khoảng 1 năm trong rừng Campuchia, thú thì đầy mà không có phương tiện bắt, họ lại tháo dây võng làm bẫy thú, gỡ từng sợi vải của chiếc võng để đan thành tấm lưới bắt cá, rau rừng thì nhiều mà gạo lại khan hiếm vô cùng, mỗi ngày một người chỉ được nhúm gạo, bệnh tật không có thuốc uống. Năm 1971, “chiến thắng Đường 9 - Nam Lào” đã mở ra con đường thông thoáng cho thương binh miền Nam rời Campuchia tiếp tục vượt đất Lào để lên dãy Trường Sơn. Thương binh mất chân không thể để anh em cáng võng mãi nên xuống đi bộ, có người mất cả hai chân bèn “chế” chân giả để tiếp tục cuộc hành trình từng bước ra Bắc.

Miền Nam thống nhất và cuộc trở về

Tháng 4-1971, từng tốp thương binh miền Nam bắt đầu đến đất Bắc, mỗi nhóm một nơi. Số đông dừng chân ở Hà Nam Ninh để an dưỡng và học tập. Năm 1975, đánh đuổi giặc Mỹ ở miền Nam xong, đất nước thống nhất, ngày trở về quê nhà, người thân của họ mới vỡ òa trong niềm vui và hạnh phúc. Trong nhóm thương binh miền Nam năm ấy, có cả trăm người quê Bến Tre, sau khi an dưỡng và học tập, nhiều người trở về quê nhà dùng kiến thức đã học tiếp tục đóng góp vào công cuộc kiến thiết đất nước. Có những người giữ trọng trách lớn trong các ban, ngành tỉnh. Có những thương binh đã kết duyên vợ chồng, hòa bình rồi họ trở về và gầy dựng hạnh phúc, tương lai.

Văn nghệ nhân ngày họp mặt. 

Đến nay, số thương binh miền Nam còn sống hầu hết đều có 40 năm tuổi Đảng. Chú Lê Hoàng Dũng nhớ lại: “Tôi chỉ mới học tới lớp 5, ra Bắc được học bổ túc văn hóa đến hết cấp 3, thời đó thi cử nghiêm túc lắm. Sau này trở về Bến Tre tôi công tác tại Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, sau về Hội Văn học Nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu rồi nghỉ hưu cho đến nay”. Khát vọng sống có ích vẫn luôn hằn trong tâm trí người lính dẫu thân thể không còn nguyên vẹn, chú Trần Võ Kiều (75 tuổi, đến từ TP. Hồ Chí Minh) mặc dù mất một chân vẫn là tay đua xe đạp “có máu” của Câu lạc bộ xe đạp quận Tân Phú. “Chúng tôi thường đi xe đạp, cầu Rạch Miễu vừa xây xong chúng tôi có mặt ngay để chiêm ngưỡng. Mới tháng rồi, câu lạc bộ chúng tôi cũng đi xe đạp về huyện Giồng Trôm để trao một nhà tình nghĩa”.

Xúc động hơn khi chúng tôi được trò chuyện với một số thương binh tiếp tục trở thành “chiến sĩ” trên mặt trận sản xuất. Anh hùng lao động Nguyễn Tấn Quang (75 tuổi, đến từ TP. Hồ Chí Minh), từ trong chiến trường, ông phụ trách mảng sản xuất nông nghiệp và có nghề thợ tiện. Với lòng yêu nghề, khi hòa bình ông dốc lòng tìm hiểu, sáng tạo một số máy móc để nâng cao hiệu quả công việc. Ngày họp mặt tại Bến Tre, ông rơi nước mắt khi nói về đồng đội: “Chúng tôi thương nhau lắm, ngày an dưỡng ở miền Bắc tôi phải trải qua nhiều lần phẫu thuật, nằm trên cáng thương đến phòng mổ, đi bên cạnh tôi có các anh em động viên, khi tôi mở mắt tỉnh dậy thì cũng là những anh em ấy túc trực bên cạnh. Sau giải phóng, tôi phải phẫu thuật thêm 4 lần nữa, lần này có vợ và con nhưng hình ảnh anh em đồng đội ngày nào vẫn mãi sống trong ký ức của tôi”.

Trong miền ký ức đó, ẩn hiện hình ảnh những bóng hồng mang theo cả một miền Nam ra đất Bắc. Đó là chiếc áo bà ba, câu hò, điệu hát, đậm chất quê hương mà các anh em thương binh không thể nào quên. Hành trình ra đất Bắc của thương binh miền Nam gần 2 năm trường đầy gian nan và hiểm nguy sẽ mãi là ký ức đẹp với người lính về tình đồng đội. Cũng là bài học cho thế hệ hôm nay thêm trân trọng công lao của lớp cha anh đi trước, biết đoàn kết cùng nhau vượt qua khó khăn đi tới, là câu chuyện can trường về khát vọng sống mãnh liệt trong mỗi con người.

Bài, ảnh: Thạch Thảo

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN