 |
Ảnh minh họa. |
Nhận ra chiếc áo bà ba trắng phơi trên sào sau nhà má Năm, Tư Công mừng như người bắt được của. Cả tuần nay, đường dây từ Bình Khánh qua Thạnh Phú Đông này để nối về Lương Hòa hoàn toàn bị cắt đứt. Tình hình bên Trung đội ba ở Bình Khánh và Trung đội hai ở Lương Hòa như thế nào anh mù tịt.
Tình thế Trung đội bảy của anh những ngày vừa qua quả là quá bi đát.
Ngay khi phát hiện hai chiếc giang thuyền của địch từ Hàm Luông xuống, anh em du kích Thạnh Phú Đông đã bắn báo động nhưng Trung đội của anh vẫn không thể nào kịp trở tay. Đại đội thám kích của địch bất thần tấn công thẳng vô trạm cứ như vào chỗ không người ngay từ sau những tràng đại liên và M79. Từ hừng đông sáng, cả Trung đội tan tác như đàn gà con lạc mẹ, mãi tới chiều tối mới gom lại được.
Lán trại bị địch đốt sạch. Anh em tranh thủ dựng lại sơ sài để tạm dùng đỡ nhưng vẫn không thể nào ở được. Cái gì vậy? Cứ hễ nằm im thì thôi, rục rịch sinh hoạt là pháo trên Phước Long ngay lập tức dội về. Cuối cùng, Trung đội phải rút ra đóng sát bên ven đồng ấp 2B. Từ đây nhìn ra xóm thấy thằng địch vẫn còn lổm ngổm đi lại trên lộ.
Trở lại nơi đóng quân cũ hái rau, tát mương bắt cá tôm cũng không thể nào được với mấy khẩu pháo như có lỗ tai kia. Cuối cùng anh em mới phát hiện chiếc máy thu tiếng động do địch gài lại trong đám khóm chính là nguyên nhân gây ra tai họa.
Tiệm tạp hóa của má Năm do chị Sáu Ngưng, con của má trông coi, là chỗ dựa đáng tin cậy của Trung đội. Có tiền hay không có thì gạo thóc, dầu lửa, nước mắm, tương chao và thậm chí cả thuốc men đều trông nhờ vào đây. Chồng của má là chiến sĩ vệ quốc đã hy sinh hồi chín năm. Gia đình má xưa giờ vẫn một lòng đùm bọc chở che cho các anh.
Ám hiệu chiếc áo trắng phơi sau nhà báo cho Tư Công biết rằng địch đã rút, tình hình đã êm, các anh có thể lên giồng được. Thật ra, anh rất nóng lòng muốn biết là điều gì đã xảy ra trong những ngày vừa qua. Chiêu hồi hay chỉ điểm? Nếu không như vậy thì làm gì đại đội thám kích lại ngang nhiên xồng xộc vào ngay chóc bến nước đơn vị vẫn dùng mỗi ngày để qua lại phía Bình Khánh rồi tấn công thẳng vô trạm.
Chẳng thà thiệt hại như trận năm 1968 ở vàm Thủ Cửu hay đợt đưa quân từ Thạnh Phú về hồi năm 1972. Trận trước bị trực thăng bắn chìm tàu chở vũ khí là do tình thế quá khẩn trương buộc ta phải qua sông ban ngày. Đợt sau do trời tối mãi tới khi phát hiện ra tàu địch thì tàu của chúng ta đã đến quá gần. Không còn cách nào khác hơn là lủi đại vô bờ, chia nhỏ lực lượng ra tìm đường tẩu thoát. Tàu mất, máy mất, vũ khí mất và cả con người cũng mất nhưng rõ ràng không đau bằng lần này.
Trong những ngày địch đóng quân lại xóm, má Hai, mẹ Sáu Thắng, má Năm và chị Sáu Ngưng đã khéo léo khai thác được tin tức. Và quả đúng như dự cảm của Tư Công, có một ai đó đã chỉ điểm căn cứ Trung đội. Và kẻ đó không ai khác hơn là Trần Chính, người ở Long Mỹ. Chính các anh đã lầm! Trần Chính hoàn toàn không phải là thanh niên trốn quân dịch và theo chân các anh như một thanh niên cảm tình, cơm nước chung từ hơn nửa tháng qua. Hắn chính là chiến sĩ của Tiểu đoàn 516, do mâu thuẫn, bất mãn rồi bỏ ngũ trở về quê. Các anh đã mất cảnh giác để hắn chơi một vố quá đau.
Chuyện vỡ lở rồi Tư Công mới chợt nhớ lại lời chú Ba Đến và chú Năm Câu đã nói trong một lần qua sông: “Tao thấy có thằng nào lạ hoắc, bộ trung đội mới nhận thêm quân hả?”
* * *
“Đếm tròn năm”. Mật khẩu qui ước của Trung đội được chú Năm bên cù lao Lá đáp trả đúng sau ba lần khép - mở ngọn đèn lồng. Từ bên này chú Ba Đến cho xuồng rời bến chở theo Sáu Thắng, Tư Công và Mười Linh.
Nhiệm vụ nặng nề rồi đây. Ngày mai, chỉ nội trong buổi chiều mai thôi Trung đội bằng mọi cách phải đưa nguyên Trung đoàn Một từ vàm Minh Đức vượt ngang cồn Lá rồi đổ quân xuống bãi đất trống ở Hiệp Hưng để Trung đoàn kịp hành quân về Sài Gòn phục vụ chiến dịch lớn - Chiến dịch Hồ Chí Minh!
Mấy tháng qua được quân khu điều động, Trung đoàn Một đã về Bến Tre hoạt động mạnh ở khu vực Mỏ Cày Bắc, gây nhiều thiệt hại cho địch ở Hưng Khánh Trung. Tân Phú Tây, Thành An…
Với quân số cả ngàn người, để vượt sông Hàm Luông thần tốc, không còn cách nào khác là phải dùng nhiều phương tiện lớn. Lấy đâu ra? Và phương án hành động được thống nhất huy động đò khách của dân. Đây là điều chẳng đặng đừng vì rất nguy hiểm cho cuộc sống lẫn sinh mạng của các cô bác chủ đò. Trung đội 7 thỉnh thoảng vẫn phải dùng tới biện pháp này nhưng hết sức hạn chế.
Cả lực lượng bí mật lẫn công khai được huy động để vận động các chủ đò: Phước Thành, Hữu Đức, Ái Hữu, Hưng Phát… Bà má Năm, bà Hai Cung, chị Sáu Ngưng, chú Ba Đến, chú Năm Câu và cả ông Tám Thông Thường. Ông Tám Thông Thường, chủ đò Hữu Đức không những hưởng ứng phục vụ đợt chuyển quân này mà còn tích cực vận động thêm các đồng nghiệp khác.
Cái khó của đợt hành quân là địa điểm tập kết do phía Trung đoàn Một của đồng chí Ba Cang qui định lại nằm lọt giữa hai bót Cầu Tàu Phú Khánh và bót Cồn Lá. Di chuyển vào ban ngày chính là di chuyển ngay trước mũi của địch. Từ hai đồn này, địch chẳng cần phải dùng đến ống dòm vẫn nhận rõ mồn một từng động thái của ta. Nhưng đã là quân lệnh thì vẫn cứ phải thi hành!
Thì ra, mọi biện pháp đều đã được tính toán chu đáo. Quân chủ lực có khác. Hỏa lực và quân số của Trung đội 7 giao bưu tỉnh được Trung đoàn cho tăng cường để kềm chân phong tỏa cả hai bót, không cho chúng nhúc nhích.
Từng chiếc đò khách tuần tự vượt sông Hàm Luông với sự hướng dẫn của những chiến sĩ giao bưu Bến Tre. Và cả trung đoàn Một lần lượt mất hút sau những khu vườn xã Hiệp Hưng bằng những chuyến đò gần như công khai.
Mọi sự êm xuôi trót lọt như không có gì xảy ra. Trung đội 7 trở lại với công việc hàng ngày của mình là giữ vững đường dây chờ đợi những nhiệm vụ nặng nề mới. Những con đò khách trở về Bến Lở quen thuộc cũ và chính họ, những người chủ đò đã to nhỏ rỉ tai cho những hành khách… Đại quân rầm rộ! Và một phần nào đó, chính nhờ vậy mà những binh sĩ trong hàng ngũ địch đã tự động rã ngũ, bớt sự tổn hao xương máu.
Ngày giải phóng đã cận kề lắm rồi. Và điều đó đã xảy ra.
* * *
Ba mươi lăm năm sau, nhân một lần gặp hai anh chiến sĩ giao bưu tỉnh thuộc B7 ở một quán cà phê thành phố Bến Tre, trong không khí khô hanh của mùa phượng vĩ gợi các anh nhớ về những ngày này. Cũng những ngày này của năm xưa “tháng năm màu hoa rực rỡ…”. Ôi, mới đó mà đã ba mươi lăm năm!
- Vụ chú Ba Đến sao rồi Sáu Thắng? Anh Năm Phương chợt hỏi.
- Cũng vậy. Sáu Thắng hờ hững đáp pha chút buồn không giấu giếm.
Tôi chen vào hỏi là chú Ba Đến nào. Hai anh bảo rằng là cái ông mà các anh đã đề cập tới nãy giờ. Ông là đảng viên hai thời kỳ, quê ở Minh Đức, Mỏ Cày, là người thuộc Trung đội 7 nhưng do tuổi cao, ông có điều kiện hoạt động công khai. Hễ trung đội đóng ở đâu là dưới bến nước luôn có xuồng ông tới túc trực để phục vụ công tác, bất kể những khi Trung đội bị đánh tơi tả phải bôn ba xuống tận Hiệp Hưng hay phải trôi ngược về tới Sơn Phú.
Ngày giải phóng, ai nấy đều tất bật với ngổn ngang công việc tiếp quản. Chú Ba Đến ở lại sống với người dân Thạnh Phú Đông và sinh hoạt Đảng tại đây. Công việc cứ cuốn riết lấy mọi người. Quên thì không ai quên nhưng nhớ thì chưa kịp.
Để đến bây giờ khi kịp nhớ ra thì khu nghĩa địa ở cạnh chùa, tất cả các ngôi mộ đã được bốc đi hết rồi để trả lại đất cho chùa. Và ở đó bây giờ còn lại lẻ loi chỉ một mình ông.
Ông Ba Đến, người chiến sĩ cách mạng lão thành thuộc B7 Giao bưu vận tỉnh Bến Tre. Với ông, quê hương đất nước nằm trên quê hương đất nước, tình đặt cao hơn tình, thân bỏ ngoài thân, đến khi chết đi rồi còn cao đẹp hơn cả khi mình còn sống. Chút xíu vinh hoa, phú quí cũng không bám được vào ông.
Ba anh em tôi đột nhiên ai cũng dừng lời. Bưng ly cà phê lên uống mà hình như đứa nào cũng thấy mắc cỡ.
(30/3/2010)