BDK - Ngày 19-12-2024, Phó thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà ký ban hành Quyết định số 1611/QĐ-TTg về việc công nhận huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre đạt chuẩn nông thôn mới (NTM). Ngày 17-1-2025, UBND huyện Mỏ Cày Nam dự kiến sẽ tổ chức lễ công bố huyện đạt chuẩn NTM nhân dịp kỷ niệm 65 năm Ngày Bến Tre Đồng khởi (17-1-1960 - 17-1-2025). Để đạt được kết quả trên, thời gian qua, phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng NTM” tại huyện Mỏ Cày Nam được nhân dân đồng tình hưởng ứng mạnh mẽ, tạo ra sức lan tỏa lớn và mang lại hiệu quả thiết thực. Đến nay, huyện có 15/15 xã đạt chuẩn NTM, 6 xã đạt chuẩn NTM nâng cao và 2 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu.
Đường về xã nông thôn mới kiểu mẫu Định Thủy (Mỏ Cày Nam). Ảnh: CTV
Huyện Mỏ Cày Nam là một trong 9 huyện, thành phố của tỉnh và là một trong 4 huyện thuộc cù lao Minh. Huyện có diện tích tự nhiên 23.095,25ha, chiếm 9,64% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, trong đó đất nông nghiệp là 17.503,94ha. Huyện có 16 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 15 xã với 111 ấp và 1 thị trấn, 46.374 hộ dân, dân số 144.713 người. Kinh tế chủ yếu của huyện là nông nghiệp với 2 lĩnh vực chính là kinh tế vườn và chăn nuôi.
Tiềm năng và thế mạnh
Chủ tịch UBND huyện Võ Văn Út cho biết: Huyện Mỏ Cày Nam là trung tâm kết nối TP. Bến Tre với các huyện Chợ Lách, Mỏ Cày Bắc và Thạnh Phú. Huyện cũng là nơi có sản phẩm đặc trưng của dừa, nhất là chợ nổi dừa và làng nghề khai thác dừa dọc sông Thom. Huyện nằm cách TP. Vĩnh Long 51km theo quốc lộ 57 và cách TP. Trà Vinh 25km theo quốc lộ 60. Đặc biệt, sau khi cầu Hàm Luông được khai thác sử dụng, huyện đã phá thế biệt lập, là cửa ngõ của huyện Thạnh Phú và các huyện thuộc tỉnh Trà Vinh hướng về trung tâm tỉnh Bến Tre, vai trò này càng phát huy rõ nét khi cầu Cổ Chiên được xây dựng hoàn thành.
Với đặc thù là vùng sông nước nên hệ thống giao thông đường thủy của huyện khá phát triển với nhiều sông lớn, nhỏ tạo thành mạng lưới dày đặc nối thông nhau. Hệ thống sông rạch ngoài nhiệm vụ tiêu thoát nước còn làm nhiệm vụ giao thông, đóng vai trò quan trọng không kém bên cạnh giao thông bộ; đặc biệt là có 2 con sông lớn thuộc hệ thống sông MêKông là sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên chạy dọc theo địa bàn huyện, nên có vị trí trung chuyển quan trọng theo đường thủy giữa các huyện thuộc cù lao Bảo của tỉnh với các huyện của tỉnh Trà Vinh và tỉnh Vĩnh Long.
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (NTM) được triển khai thực hiện trên địa bàn huyện từ năm 2011, lúc đầu gặp không ít khó khăn do xuất phát điểm khá thấp, số tiêu chí (TC) bình quân các xã chỉ đạt từ 3 - 6 TC. Thu nhập bình quân đầu người năm 2010 chỉ đạt 14 triệu đồng, tỷ lệ hộ nghèo khá cao, chiếm 9,03%. Hạ tầng nông thôn còn yếu kém, bộ mặt nông thôn chưa thay đổi nhiều, sản xuất nông nghiệp chưa bền vững, kinh tế tập thể kém phát triển. Giai đoạn 2016 - 2020, huyện có 2 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang đạt dưới 10 TC NTM là Bình Khánh Đông và Thành Thới A.
Thời gian qua, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, cả hệ thống chính trị và nhân dân huyện Mỏ Cày Nam đã đoàn kết, chung sức, chung lòng, phát huy mạnh mẽ tinh thần “Đồng khởi mới” trong xây dựng NTM. Qua quá trình phấn đấu, nỗ lực, đến nay huyện Mỏ Cày Nam đã hoàn thành các TC huyện NTM theo Quyết định số 320/QĐ-TTg và Quyết định số 211/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Hoàn thành các tiêu chí huyện nông thôn mới
Huyện Mỏ Cày Nam đã thực hiện đạt 9 TC huyện NTM, trong đó nổi bật một số kết quả như sau. Giai đoạn 2021 - 2025, huyện đã hoàn thành công tác lập mới, điều chỉnh đồ án quy hoạch chung xây dựng NTM giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030 cho 100% các xã, gồm 1 xã lập mới và 14 xã điều chỉnh.
100% đường huyện, đường xã, đường ấp và đường liên ấp và 94,4% đường ngõ, xóm đã đầu tư đạt chuẩn theo quy định. Tất cả các tuyến đường giao thông nông thôn đều được bảo trì, duy tu thường xuyên, đảm bảo các quy định về kết cấu đường, an toàn giao thông; các tuyến đường xã, đường ấp đảm bảo ô tô đi lại thuận tiện quanh năm và kết nối với trung tâm hành chính xã trên địa bàn.
Hệ thống thủy lợi đều được triển khai xây dựng đồng bộ từ các công trình đầu mối đến kênh nội đồng góp phần rất lớn vào nhu cầu phục vụ cho sản xuất của người dân; 99,66% diện tích đất nông nghiệp được tưới chủ động; 100% diện tích đất nông nghiệp và phi nông nghiệp được tiêu chủ động và 100% diện tích đất nuôi trồng thủy sản được cấp thoát nước chủ động. Tỷ lệ hộ có đăng ký trực tiếp và được sử dụng điện thường xuyên, an toàn từ các nguồn đạt 98,67%.
Trung tâm Y tế huyện được công nhận xếp hạng III, thực hiện đạt các nhiệm vụ, chỉ tiêu Sở Y tế giao. 16 trạm y tế đều được đầu tư xây dựng khang trang, đầy đủ trang thiết bị và đội ngũ chuyên môn phục vụ người dân. 100% ấp có nhà văn hóa và các điểm sinh hoạt văn hóa, thể thao cộng đồng. 100% trường từ cấp mầm non đến cấp THCS đạt chuẩn cơ sở vật chất mức tối thiểu trở lên.
Làng nghề công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp An Thạnh, diện tích 84ha, gồm 7 công ty và 48 cơ sở sản xuất, kinh doanh hoạt động các ngành nghề nông thôn như sản xuất chỉ xơ dừa, sơ chế cơm dừa, ép dầu dừa, mua bán dừa trái, đồ thủ công mỹ nghệ, phát triển du lịch gắn với bảo tồn. Làng nghề có doanh thu 165,87 tỷ đồng/năm, lợi nhuận trên 33 tỷ đồng/năm, giúp địa phương giải quyết việc làm ở thời điểm cao nhất khoảng 1.300 người.
Phát huy tốt sản phẩm nông nghiệp chủ lực của huyện là dừa, giá trị sản xuất vườn dừa của huyện chiếm 57,67% giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp. Huyện có 15 vùng trồng dừa tập trung tại 15 xã với tổng diện tích 16.082ha. Các vườn dừa trên địa bàn huyện đang tập trung sản xuất theo quy trình hữu cơ, trong đó có 4.760 vườn được chứng nhận quy trình hữu cơ theo tiêu chuẩn của Mỹ, EU với tổng diện tích là 5.896,8ha.
Nhiều mô hình xây dựng cảnh quan môi trường sáng - xanh - sạch - đẹp được triển khai thực hiện. Có 68,5% đường nông thôn được trồng cây xanh, hoa kiểng tạo cảnh quan môi trường; tỷ lệ diện tích đất trồng cây xanh sử dụng công cộng tại các điểm dân cư là 4,09m2/người; 78,09% đường nông thôn được lắp bóng đèn thắp sáng, các tuyến đường còn lại đang tập trung vận động nguồn lực để tiếp tục thực hiện, đảm bảo đến cuối năm 2024 đạt tỷ lệ 100%; 54,02% hộ dân tham gia thực hiện mô hình thu gom, phân loại, xử lý rác sinh hoạt tại hộ gia đình. Tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch theo quy chuẩn từ hệ thống cấp nước tập trung toàn huyện là 74,6%. Huyện có 97,6% hộ gia đình đạt danh hiệu “Gia đình văn hóa”, trong đó có 88% được công nhận danh hiệu “Gia đình văn hóa” 3 năm; 97,3% ấp đạt chuẩn văn hóa.
Thu nhập bình quân đầu người năm 2023 của huyện đạt 71 triệu đồng, tăng 57 triệu đồng so với năm 2011. Tỷ lệ hộ nghèo chiếm 2,62%, giảm 6,41% so với năm 2011. Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều của 15 xã trên địa bàn huyện đều thấp hơn 4%, trong đó có 10 xã dưới 2,5%. Tỷ lệ nhà ở kiên cố hoặc bán kiên cố đạt 95,5%, các xã đều có tỷ lệ đạt trên 90%.