Mở đường “Đường Hồ Chí Minh trên biển” - Nét độc đáo của nghệ thuật chiến tranh nhân dân địa phương mang khát vọng của đất nước

25/09/2011 - 18:10
Đồng chí Nguyễn Thị Định - vị thuyền trưởng chuyến tàu gỗ xuất phát từ Bến Tre cuối tháng 3-1946. (ảnh tư liệu chụp lại).

LTS: Hướng tới kỷ niệm 50 năm Ngày ra đời Đường Hồ Chí Minh trên biển (23-10-1961 - 23-10-2011), từ số này Báo Đồng Khởi khởi đăng loạt bài về hành trình các chuyến đi của Đoàn tàu không số xuất phát từ bến Cồn Lợi (Thạnh Phong - Thạnh Phú) với tiêu đề: Mở đường “Đường Hồ Chí Minh trên biển”- Nét độc đáo của nghệ thuật chiến tranh nhân dân địa phương mang khát vọng của đất nước, của tác giả Huỳnh Văn Be. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

Chiếc ghe mũi đỏ Gò Công chở 12 tấn vũ khí Trung ương chi viện cuối năm 1946. Ảnh tư liệu (chụp lại)

 

Tháng 5-2011, cả nước sôi nổi thi đua yêu nước hướng về dịp kỷ niệm 121 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, 100 năm Ngày Người ra đi tìm đường cứu nước. Cách nay 65 năm, ngày 19-5-1946, tại Thủ đô Hà Hội có ba người con ưu tú quê Bến Tre được Văn phòng Chính phủ bố trí gặp và mừng sinh nhật Bác Hồ. Ba cán bộ quê hương xứ Dừa đó là đồng chí Nguyễn Thị Định - Ủy viên Ban Chấp hành Hội Phụ nữ cứu quốc tỉnh, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp và nhà giáo Ca Văn Thỉnh. Cuộc gặp gỡ lịch sử đó là một chi tiết quan trọng trong sự kiện chuyến vượt biển đầu tiên của đoàn cán bộ quân sự Khu 8 từ Bến Tre ra Hà Nội báo cáo tình hình chiến trường Nam Bộ lúc bấy giờ và xin chi viện vũ khí về Nam đánh Pháp. Tại buổi gặp mặt và báo cáo tình hình ấy, Bác Hồ có ý kiến chỉ đạo và dặn dò: “Thế nào Trung ương và Chính phủ cũng có súng gửi về Nam. Nhưng nước ta còn nghèo, các cô các chú về, phải đánh Pháp cho giỏi, cướp lấy súng của nó dùng thì cái vốn đó mới nhiều”. (Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, tập 3, NXB Chính trị Quốc gia- năm 2006, trang 217).

Khoảng sáu tháng sau, chỉ có một cán bộ Bến Tre là đồng chí Nguyễn Thị Định trở về miền Nam trên con tàu vượt biển mang theo 12 tấn vũ khí được Trung ương chi viện. Bến Tre trở thành đầu cầu tiếp nhận vũ khí Bắc - Nam trong kháng chiến chống Pháp từ đó. Đây là một nét son độc đáo trong lịch sử quân sự địa phương và là tiền đề cho sự hình thành Đường Hồ Chí Minh trên biển oai hùng và huyền thoại trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

 

Kỳ 1: Sự hình thành tuyến vận tải vũ khí Bắc -Nam đầu tiên trong kháng chiến chống Pháp

Về chuyến vượt biển của đoàn cán bộ Khu 8 ra Hà Nội báo cáo Trung ương và Bác Hồ tình hình cách mạng miền Nam sau Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945 và đề nghị Trung ương chi viện vũ khí để đánh Pháp, đến nay nguồn tư liệu và nhân chứng khá hạn hẹp, song vẫn có thể tái hiện chân thực chuyến vượt biển lịch sử này về ba khía cạnh: Bối cảnh cách mạng miền Nam trong giai đoạn đầu khi thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta lần thứ 2; Hành trình, nhiệm vụ chuyến đi và chuyến về của con tàu chở vũ khí từ Bắc vào Nam; Ý nghĩa sách lược, nghệ thuật trong đấu tranh vũ trang kết hợp với khả năng huy động lực lượng trong chiến tranh nhân dân. Chính yếu tố thời gian sự kiện đã xa và tính chất bí mật của chuyến hải trình quan trọng này mà đến nay cần được khẳng định và tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ thêm.

Vào tháng 3 năm 1946, trong khi đang giữ cương vị Ủy viên Ban Chấp hành Hội Phụ nữ cứu quốc tỉnh, đồng chí Nguyễn Thị Định nhận được lệnh của Khu ủy Khu 8 và Tỉnh ủy Bến Tre, cùng đoàn đại biểu quân dân chính Khu đi bằng đường biển ra Trung ương với 2 nhiệm vụ chính: Báo cáo tình hình cách mạng miền Nam và xin chi viện vũ khí cho quân dân Nam Bộ đánh Pháp. Thành phần đoàn công tác bí mật này có ít nhất 4 người (có tài liệu xác định chỉ có 4 người); có tài liệu nêu có các đại biểu Quốc hội Khu 8 ra Hà Nội họp trong chuyến vượt biển này, gồm đồng chí Đoàn Văn Trường - Tư lệnh Khu 8, nhà giáo Ca Văn Thỉnh, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp và người nữ duy nhất đồng thời giữ vai trò thuyền trưởng là cô Ba Nguyễn Thị Định, khi ấy mới 26 tuổi. Phương tiện vượt biển lúc bấy giờ chỉ là một con thuyền gỗ, chèo bằng tay và sử dụng buồm để lợi dụng sức gió. Thuyền được nghi trang giống thuyền đánh cá với những dụng cụ đặc trưng của cư dân miền biển. Hành trình của đoàn xuất phát vào một ngày cuối tháng 3-1946 từ Cồn Lợi (xã Thạnh Phong, huyện Thạnh Phú) thẳng ra biển Đông, khi đến hải phận quốc tế thì chuyển hướng lên phía Bắc. Thành viên trong đoàn sử dụng la bàn, xem thời tiết, hướng gió, nhìn sao ban đêm để định hướng di chuyển trên biển. Các phương án nghi binh khi gặp tàu tuần tra của địch đã được đặt ra, việc có thể gặp sự cố kỹ thuật cũng được tính đến.

Đúng như dự đoán, con thuyền buồm ra Bắc lênh đênh trên biển sau 2 ngày thì gặp gió chướng, cột buồm bị gãy. Sau khi hội ý, chỉ huy quyết định hướng mũi thuyền vào bờ. Nơi ấy là mũi Kê Gà, tỉnh Phan Thiết đã bị Pháp chiếm đóng. Đoàn quyết định bắt liên lạc để đi bộ xuyên rừng núi ra Khu 5. May sao, gió chuyển hướng Tây - Nam, đoàn thuê được một con thuyền khác, giương buồm tiếp tục cuộc hành trình ra Bắc. Lần thứ 2, thuyền quay vào bờ đã là đất Phú Yên, khi ấy nơi đây là vùng tự do. Chính quyền cách mạng địa phương tiếp đón đoàn rồi theo đường bộ, giao liên đưa đoàn ra Quảng Ngãi. Tại đây, Tư lệnh Khu 5 lúc bấy giờ là đồng chí Nguyễn Sơn đã đón đoàn và bố trí đoàn ra Hà Nội bằng xe lửa. Đoàn vinh dự được gặp Bác Hồ và trực tiếp trình bày nguyện vọng được Trung ương chi viện vũ khí về Nam đánh Pháp. Nghe Bác Hồ nói: “Thế nào Trung ương và Chính phủ cũng có súng gửi về Nam…”, cả đoàn mừng vui và xúc động! Tuy nhiên, sự thật là chuyến vượt biển ra Bắc đã là gian nan, song chuyến chở 12 tấn vũ khí về Nam vượt qua vòng vây dày đặc của quân Pháp càng cam go hơn, bởi phải khôn khéo đấu trí với quân thù và sẵn sàng hy sinh như người lính cảm tử quân!

* Ở đây vấn đề đặt ra là: Vì sao ngay khi Nam Bộ kháng chiến từ ngày 23-9-1945, nhiều đơn vị, trung đoàn từ miền Bắc, miền Trung đã Nam tiến mang theo người, vũ khí chi viện cho cách mạng miền Nam trong buổi đầu thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta, mà sự kiện đầu tiên là chúng nổ súng đánh chiếm Sài Gòn - Gia Định? Các tỉnh miền Tây Nam Bộ khi ấy vì sao xuất hiện tình hình “đói súng”? Vì sao Khu ủy Khu 8 lại chọn bờ biển Thạnh Phú là nơi xuất phát của con thuyền đưa đoàn cán bộ quân dân chính ra Bắc gặp Trung ương? Vai trò của nữ đồng chí Nguyễn Thị Định trong chuyến vượt biển ra Bắc xin vũ khí lần đầu tiên trong kháng chiến chống Pháp?

Qua các tài liệu nghiên cứu cho thấy, sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, tình hình đất nước nói chung và ở Nam Bộ nói riêng vô cùng cam go. Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình, Hồ Chủ tịch đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Ngày 23-9-1945, thực dân Pháp quay lại đánh chiếm Sài Gòn - Gia Định. Ở phía Bắc, 200.000 quân của lực lượng quân phiệt Tưởng Giới Thạch lợi dụng chủ trương vào để tước khí giới và giải giáp quân đội Nhật, song mưu đồ thâm độc là lật đổ chính quyền non trẻ của nước ta. Ở phía Nam, quân đội Anh với gần 100.000 quân cũng thực hiện mưu đồ như quân Tưởng Giới Thạch, nguy hiểm hơn là quân Anh cấu kết với thực dân Pháp để tái chiếm miền Nam. Tình thế cách mạng Việt Nam “lửa cháy hai đầu”, “sơn hà nguy biến”. Ngày 26-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư “Gửi đồng bào Nam Bộ” khẳng định cuộc đấu tranh đánh đuổi thực dân Pháp là chính nghĩa, nhân dân cả nước đoàn kết một lòng thì cuộc kháng chiến giữ nước nhất định thắng lợi. Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 25-11-1945 Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”. Các tỉnh ở Bắc Bộ, Trung Bộ thành lập các trung đoàn thực hiện chiến dịch “Nam tiến”. Thế nhưng, các đơn vị bộ đội sau khi vượt qua cực Nam Trung Bộ chỉ tiếp cận và chận đánh địch tại địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ và ngoại vi Sài Gòn, chưa chi viện được cho các tỉnh miền Tây Nam Bộ.

 

Kỳ 2: Vị nữ thuyền trưởng trong chuyến mở đường ra Bắc xin chi viện vũ khí trong giai đoạn đầu kháng chiến chống Pháp

Tình thế chiến sự Khu 8 những tháng cuối năm 1945 trở nên gay go, ác liệt, bất lợi cho cách mạng. Sau khi mặt trận phía Nam Sài Gòn bị vỡ, quân Pháp tiến chiếm các tỉnh Mỹ Tho, Gò Công. Trong khi lực lượng bộ đội các địa phương mới hình thành, vũ khí thô sơ thì phía địch đã có hải quân, không quân, xe tăng, pháo binh, lục quân hiện đại, ta vừa đánh vừa nghi binh, lui binh để bảo toàn lực lượng. Khi ấy, các đơn vị cộng hòa vệ binh Nam Bộ, bộ đội Gò Công, bộ đội Bình Xuyên… chuyển quân về địa bàn An Hóa. Sau đó, trước tình hình lực lượng, vũ khí của ta chưa đủ mạnh, các đơn vị rút dần về các xã huyện Giồng Trôm và cuối cùng là căn cứ tại huyện Thạnh Phú. Ngày 8-2-1946, thực dân Pháp tiến đánh thị xã Bến Tre. Tỉnh cù lao Bến Tre là địa phương cuối cùng của các tỉnh Nam Bộ bị địch chiếm đóng. Tỉnh ủy Bến Tre từ tháng 11-1945 đã rút vào bí mật, song vẫn tiếp tục chỉ đạo hiệu quả việc củng cố chính quyền cách mạng, tuyên truyền chủ trương kháng chiến, phát triển đảng viên lên đến 1.000 người. Các đơn vị du kích, bộ đội địa phương từng bước được hình thành làm nòng cốt xây dựng lực lượng vũ trang gắn với phong trào yêu nước của các đoàn thể cứu quốc. Thực tiễn cách mạng ở Khu 8 và chiến trường Bến Tre đặt ra một thách thức phải có vũ khí để trang bị cho bộ đội, du kích các địa phương đánh Pháp. Mặt trận Nam Sài Gòn bị vỡ, việc chi viện người và vũ khí của đoàn quân Nam tiến bị cắt đứt. Trước tháng 5-1946, Tỉnh ủy Bến Tre lấy địa bàn các xã ven biển Thạnh Phú, địa hình cồn bãi làm căn cứ, bà con ngư dân che chở nuôi giấu cán bộ, đảng viên. Những yếu tố về thiên thời, địa lợi cùng với những đảng viên miền biển Thạnh Phú dày dạn sông nước, biển cả, tạo thành mối quan hệ nhân hòa là điều kiện thuận lợi khi thực hiện quyết định của Khu ủy Khu 8 tổ chức đoàn cán bộ vượt biển ra Bắc báo cáo tình hình và xin vũ khí cho chiến trường Nam Bộ.

 

Bia kỷ niệm nơi xuất phát chuyến tàu gỗ tại bến Thạnh Phong -
Thạnh Phú. Ảnh: CTV.TP

Về người thuyền trưởng - cô Ba Nguyễn Thị Định - khi ấy mới 26 tuổi, đã được giao một trọng trách bí mật và quan trọng như vậy, vì sao? Ngoài ý kiến của các nhà nghiên cứu về quân sự, còn cần lý giải bằng chính cuộc đời của đồng chí Nguyễn Thị Định trước và trong thời điểm năm 1946. Cô Ba Định sinh năm 1920, 13 tuổi giác ngộ cách mạng và bắt đầu làm liên lạc cho tổ chức Đảng, 18 tuổi lập gia đình. Chồng cô Ba Định là đồng chí Nguyễn Văn Bích (Ba Bích), Tỉnh ủy viên, hoạt động chung với anh trai của cô Ba. Năm 1940, khi cô Ba sinh người con đầu lòng được vài ngày thì chồng bị địch bắt, cô Ba cũng bị mật thám Pháp bắt giam tại Khám Lá Bến Tre, rồi đưa lên giam tại Sài Gòn và biệt giam tại khu tù chính trị “căng” Bà Rá. Năm 1943, sau khi thoát khỏi nhà tù thực dân, cô Ba tiếp tục hoạt động và tham gia giành chính quyền trong khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám 1945. Tại thời điểm ấy, thực hiện chỉ đạo của Xứ ủy Nam Bộ, Tỉnh ủy Bến Tre tổ chức một đoàn thuyền vượt biển ra rước các đồng chí ở tù Côn Đảo, trong đó có nhiều đồng chí cốt cán của Tỉnh ủy Bến Tre bị địch bắt. Cũng chỉ đến thời điểm hòa bình và đoàn tụ đó, cô Ba mới biết chồng mình đã bị sát hại. Thù nhà, nợ nước phải trả, cô Ba nuốt hận tiếp tục con đường tranh đấu. Lòng can trường, đức hy sinh, sự kiên trung, kinh nghiệm hoạt động thực tiễn bám dân, bám đất, bám địa bàn, thông thạo địa hình sông nước, đó là những phẩm chất hội tụ ở nữ đồng chí Nguyễn Thị Định. Đó cũng là những tố chất cần có của người thuyền trưởng!

Đến nay, có tài liệu đã xác định việc đã hình thành đường dây vận chuyển vũ khí Bắc - Nam trên biển giai đoạn 1946-1954. Đồng chí Trần Bạch Đằng (năm 1946 là Ủy viên Xứ ủy Nam Bộ), trong một bài nghiên cứu cách nay 20 năm đã từng xác nhận: “Đường dây áp tải vũ khí vào Nam, lấy vùng tự do Khu 5 làm trạm trung chuyển hình thành từ năm 1946, không thể không ghi công của chị Ba Nguyễn Thị Định, là một trong những người đề xuất chủ trương và tổ chức thực hiện”. Qua tư liệu lịch sử có thể mô hình hóa hành trình và qui luật của những chuyến tàu đặc biệt qua chuyến vượt biển đầu tiên từ Nam ra Bắc và chở vũ khí về Nam thành công. Cụ thể như sau: Thạnh Phú (Bến Tre) - Phú Yên - Quảng Ngãi - Hà Nội - Quảng Ngãi - Phú Yên - Thạnh Phú (Bến Tre). Tư liệu xác thực nhất về kết quả chuyến trở về của con thuyền mang theo 12 tấn vũ khí do cô Ba Định chỉ huy qua những trang hồi ký của Thượng tướng Trần Văn Trà viết năm 1992. Tháng 12-1946, đồng chí Trần Văn Trà - Khu Trưởng Khu 8, trực tiếp nhận số vũ khí Trung ương chi viện do thuyền trưởng Nguyễn Thị Định mang về, địa điểm giao nhận số vũ khí này là bờ biển Thạnh Phú.

Trở lại thời gian trước đó, cuối tháng 5-1946 tại Hà Nội, đồng chí Nguyễn Thị Định bịn rịn chia tay những đồng chí, đồng hương trong chuyến vượt biển ra Bắc đầu tiên để trở về Nam với nhiệm vụ nặng nề: nhận vũ khí vượt trùng dương về lại Bến Tre. Lúc đầu, Trung ương bố trí cô Ba Định đi đường bộ vào Quảng Ngãi - nơi đặt trụ sở của Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam và Bộ Tư lệnh Khu 5. Đồng chí Nguyễn Thị Định báo cáo kết quả chuyến ra Hà Nội gặp Trung ương và Bác Hồ, đồng thời truyền đạt tinh thần chỉ đạo của Trung ương và bàn kế hoạch vận chuyển vũ khí về Nam Bộ bằng đường biển. Tại đây, đồng chí Nguyễn Thị Định có điều kiện tiếp cận các tài liệu về đường lối cách mạng, đường lối chính trị, đường lối quân sự, phương pháp vận động cách mạng quần chúng, phương châm tiến hành chiến tranh nhân dân ở địa phương. Điều mừng nhất là đồng chí Nguyễn Thị Định vào tận kho quân sự của Khu 5 nhận súng, tiền và tài liệu cho Khu 8 và còn năn nỉ xin thêm “các anh cho tôi 1.000 cây, tôi đi một chuyến cho đáng!”. Một thời gian sau, đồng chí Nguyễn Thị Định theo đường giao liên Khu 5 áp tải số vũ khí này về tỉnh Phú Yên. Nơi đây, theo sự chỉ đạo của trên, đã chuẩn bị một con thuyền buồm lớn với đoàn thủy thủ trên 10 người. Đến nay, tư liệu ảnh về chuyến hải trình trở về này còn lại một tấm hình quí giá ghi lại khoảnh khắc thuyền chuẩn bị xuất bến tại Tuy Hòa (Phú Yên) giữa tháng 12-1946. Con thuyền chở vũ khí về Nam tuy cũng bằng gỗ nhưng lớn hơn, chắc chắn hơn con thuyền khi từ Nam ra Bắc. Đây là con thuyền có hình dáng, kết cấu giống ghe bầu mũi đỏ Gò Công với ba cột buồm và phần mái thấp, khoang bên dưới rộng. Hải trình trở về, lúc đầu thuyền chạy ra hướng Đông, khi đến hải phận quốc tế xuôi về Nam. Sau khi xác định rõ tọa độ mới nhích dần về bờ biển miền Tây Nam Bộ. Con đường trên biển hoạch định là vậy song thuyền trở về khi mùa mưa nhiều giông bão, lại phải đối phó với các tàu tuần tiễu của Pháp, nên thủy thủ đoàn phải thật khôn khéo, bình tĩnh mới vượt qua được những trạm kiểm soát của địch, thậm chí cả đoàn sẵn sàng hy sinh cho nổ tung con thuyền khi cần thiết. Có một chi tiết tạo ra tình huống bất ngờ khi con thuyền chở vũ khí chuẩn bị cập bờ Thạnh Phong (Bến Tre). Do thời điểm vào bờ lúc nước ròng, lại ban đêm, thuyền bị mắc cạn, đồng chí Nguyễn Thị Định phải xuống thuyền thúng một mình bơi vào bờ để bắt liên lạc. Đây là loại thuyền hình tròn mà cô Ba đã được bà con ngư dân Phú Yên hướng dẫn cách sử dụng. Dân quân tự vệ xã Thạnh Phong phát hiện “thuyền lạ và người lạ” nên giữ lại xét hỏi. Sau một hồi vừa trả lời, vừa thẩm định tình hình và xác định đây là “Người của đằng mình”, cô Ba Định mừng khôn tả, rồi xin gặp chỉ huy du kích địa phương truyền đạt chỉ đạo khẩn cấp dùng thuyền nhỏ chở số vũ khí về nơi tập kết ngay trong đêm ấy. Con thuyền chở vũ khí từ Bắc vào Nam lần đầu tiên cuối năm 1946 đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.

 

Kỳ 3: Giá trị to lớn của chuyến vận tải đưa vũ khí vào Nam trong kháng chiến chống Pháp

 

Đồng chí Trương Vĩnh Trọng - nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ
chào đón chiến sĩ Đoàn tàu không số năm xưa, tại lễ khởi công xây dựng Công viên nghĩa trang - Đường Hồ Chí Minh trên biển ở Cồn Bửng xã Thạnh Phong (Thạnh Phú). Ảnh: T.C

 

Tại một chòi lá cất giấu, ngụy trang số vũ khí từ Bắc chuyển về, Khu Trưởng Khu 8 - đồng chí Trần Văn Trà trực tiếp nhận bàn giao từ thuyền trưởng Nguyễn Thị Định số hàng gồm súng, đạn, thuốc nổ, tiền và tài liệu. Nhận được vũ khí từ Trung ương chi viện trong lúc chiến trường Khu 8 đang “đói súng” đã là mừng, song điều đồng chí Khu Trưởng Khu 8 mừng hơn là được Trung ương và Bác Hồ quan tâm chỉ đạo thực hiện tiếp tục đường dây vận chuyển vũ khí từ Bắc vào Nam bằng đường biển. Vũ khí được Trung ương chi viện là sức mạnh, là mệnh lệnh của Tổ quốc, là niềm tin “gươm báu trao tay” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với chiến sĩ, đồng bào Nam Bộ. Đồng bào, chiến sĩ Bến Tre, Khu 8 và cả Nam Bộ vinh dự, tự hào được Bác Hồ và Chính phủ trao tặng danh hiệu vẻ vang “Thành đồng Tổ quốc” đầu năm 1946, thì đến cuối năm nhận được vũ khí Trung ương chi viện. Con đường tiếp vận vũ khí từ Bắc vào Nam bắt đầu từ đó, có lịch sử riêng, cuộc đời riêng gắn liền với vận nước.

Đồng chí Trần Văn Trà có thuật lại, việc bốc dỡ số vũ khí tại bờ biển Thạnh Phong kéo dài “cả một ngày và cả đêm hôm sau”. Các đơn vị thuộc Khu 8 có mặt để nhận vũ khí và tổ chức vận chuyển bí mật về địa bàn chiến đấu của mình.

Ngày 20-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta hãy đứng lên!...”. Lời hiệu triệu của Người là tiếng gọi của non sông. Quân dân Bến Tre với vũ khí tự tạo, vũ khí cướp của giặc và vũ khí được chi viện từ Trung ương đã tổ chức những trận đánh lớn ngay khi bước vào năm 1947. Tháng 1-1947, Chi đội 19 do đồng chí Đồng Văn Cống chỉ huy mưu trí, táo bạo, chặn đánh và bẻ gãy hai tiểu đoàn quân Pháp có xe bọc thép yểm trợ, kéo vào càn hai xã Thạnh Phú Đông và Tân Hào Đông (Giồng Trôm). Trận này, ta tiêu diệt hết gần một tiểu đoàn địch, thu 150 súng, 1 súng trọng liên 12,7 ly, 1 súng chống tăng, phá hủy 1 xe bọc thép. Giữa năm 1947, Chi đội 19 được bổ sung quân số, trang bị vũ khí để phát triển thành trung đoàn chủ lực đầu tiên của tỉnh, phiên hiệu là Trung đoàn 99. Năm 1947, thành lập Tiểu đoàn 307 của Khu 8, tập kết xuất phát tại Thạnh Phú và đánh trận đầu chiến thắng lớn tại mặt trận Long An.

Cho đến hôm nay, 65 năm đã đi qua kể từ khi chuyến vượt biển từ Nam ra Bắc xin vũ khí trong giai đoạn đầu cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp, song ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm từ sự kiện này vẫn còn mang tính thời sự nóng hổi. Trước hết, về ý nghĩa có ba ý nghĩa lớn:

Thứ nhất về chính trị, đây là sự kiện thể hiện sự thống nhất từ ý chí đến hành động của một dân tộc độc lập, tự do - nước Việt Nam mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự kiện chuyến vượt biển từ Nam ra Bắc gắn với thời điểm Chính phủ lâm thời tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch.

Thứ hai về quân sự, đây là sự kiện thể hiện sinh động mối quan hệ máu thịt giữa hậu phương lớn miền Bắc đối với tiền tuyến lớn miền Nam. Bên cạnh con đường Nam tiến trên đường bộ thì lần đầu tiên xuất hiện con đường Nam tiến trên biển Đông. Việc vận chuyển thành công vũ khí từ Bắc vào Nam bằng đường biển góp phần tạo thế bất ngờ, tăng tiềm lực quân sự và kỹ thuật tác chiến đã tạo hiệu quả kép trong thực tiễn. Đó là việc hình thành nhanh chóng cơ cấu tổ chức các đơn vị chủ lực miền và quân khu, kết hợp với sự phát triển của bộ đội địa phương và dân quân du kích đồng loạt bao vây tiến công địch.

Về công tác binh vận: Có một chi tiết khá quan trọng cần được nghiên cứu thêm là từ việc hình thành trạm trung chuyển đầu cầu tiếp vận vũ khí tại Quảng Ngãi - Phú Yên mà đồng chí Nguyễn Thị Định đã bố trí chiến sĩ tình báo Phạm Ngọc Thảo học nghiệp vụ, kết nạp Đảng trước khi được đưa vào nội thành Sài Gòn hoạt động trong lòng địch, cung cấp nhiều thông tin quan trọng về âm mưu, thủ đoạn của chính phủ độc tài Ngô Đình Diệm sau năm 1954. Những bài học này đã được nhân dân Bến Tre vận dụng hiệu quả trong phong trào Đồng Khởi năm 1960 đem lại hiệu quả to lớn.

Thứ ba về phương pháp cách mạng, việc tổ chức chuyến vượt biển từ Nam ra Bắc xin vũ khí của Khu ủy Khu 8 và Tỉnh ủy Bến Tre là một quyết định đúng đắn và sáng tạo. Xét theo quan điểm toàn diện và quan điểm thực tiễn thì chiến trường và thế trận Khu 8 trong thời điểm khi ấy vừa là một bộ phận của chiến trường Nam Bộ vừa là điểm tựa, là căn cứ để các đơn vị bộ đội địa phương tập trung củng cố lực lượng sau khi mặt trận phía Nam Sài Gòn bị vỡ, các quân khu bị chia cắt. Thực tiễn cách mạng miền Tây Nam Bộ đòi hỏi phải có vũ khí để đương đầu với máy bay, xe bọc thép của quân thù! Vượt biển ra Bắc xin vũ khí là giải pháp tình thế, song là phương cách duy nhất lúc bấy giờ. Cách mạng luôn cần sự linh hoạt và sáng tạo trên cơ sở kiên trì mục đích và nguyên tắc. Đó cũng là tinh thần chung về phương pháp cách mạng theo Tư tưởng Hồ Chí Minh. Người đã từng nhấn mạnh: “Dĩ bất biến ứng vạn biến”. Mục đích bất di bất dịch của chúng ta là hòa bình, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của chúng ta phải vững chắc, nhưng sách lược của chúng ta thì linh hoạt.

Bài học kinh nghiệm lớn nhất từ chuyến vượt biển ra Bắc và chở vũ khí về Nam năm 1946 do cô Ba Nguyễn Thị Định làm thuyền trưởng là người làm cách mạng phải kiên định lập trường, sáng tạo trong hành động, linh hoạt trong thực thi kế hoạch. Đánh địch phải dùng mưu, thắng địch phải dùng trí, thực hiện phương châm dựa vào sức mình là chính. Kỹ thuật hàng hải, nghệ thuật nghi trang, tổ chức đường dây vận tải trên biển, cách đối phó với địch,… là những yếu tố quyết định thành công của những chuyến tàu mang sứ mạng chở vũ khí từ Bắc vào Nam trong thời kỳ đánh Pháp 9 năm cũng như giai đoạn đấu tranh chống đế quốc Mỹ sau này.

 

Kỳ 4: Sức mạnh của sự hợp lực, tài, trí địa phương trong việc hình thành đường Hồ Chí Minh trên biển

 

Tiếp nhận viên đá từ Trường Sa gửi tặng công trình Công viên nghĩa trang Đường Hồ Chí Minh trên biển, xã Thạnh Phong - Thạnh Phú.
Ảnh: T.C

 

Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, đất nước tạm thời chia làm hai miền. Đế quốc Mỹ hất cẳng Pháp, độc chiếm miền Nam, tạo dựng chính phủ bù nhìn Ngô Đình Diệm, thi hành nhiều chính sách tàn bạo để “tố cộng, diệt cộng”, gây bao cảnh đau thương, tang tóc và tổn thất nặng nề cho cách mạng và nhân dân miền Nam. Trong tình hình đen tối ấy, Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra đời năm 1959 đã soi sáng những quan điểm, cách thức đấu tranh cho cách mạng miền Nam. Đó là: con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Phương châm chỉ đạo là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ đế quốc, chính quyền độc tài, hiếu chiến Ngô Đình Diệm. Từ nội dung Nghị quyết 15, Trung ương Đảng cụ thể hóa bằng nhiều hoạt động cụ thể mang tính chiến lược và bí mật trong bối cảnh chiến tranh phá hoại, chiến tranh gián điệp, biệt kích của Mỹ - Diệm được tăng cường với nhiều thủ đoạn tinh vi. Cùng với việc quyết định mở đường Trường Sơn vận chuyển vũ khí, khí tài, lương thực cho chiến trường miền Nam, đến đầu năm 1961 Trung ương Đảng đã quyết định đưa 500 cán bộ cốt cán về quân sự, chính trị miền Bắc chi viện cho miền Nam đã bước vào giai đoạn cách mạng mới sau phong trào Đồng Khởi năm 1960.

Trước đó, vào tháng 7-1959, Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương đã có quyết định thành lập đoàn vận tải trên biển Đông với tên gọi Đoàn 759. Sau đổi tên là Lữ đoàn 125 trực thuộc Hải quân nhân dân Việt Nam. Các Liên Khu ủy miền Đông, miền Tây Nam Bộ nhận lệnh từ Xứ ủy Nam Bộ xúc tiến việc chuẩn bị phương tiện, bến bãi, nhân lực để thực hiện kế hoạch vượt biển ra Bắc nhận vũ khí. Tất cả các công việc đều tiến hành theo nguyên tắc khẩn trương và bí mật. Trong năm 1961, đã có 5 thuyền gỗ của các tỉnh ven biển khu vực Tây Nam Bộ (Bến Tre, Bà Rịa - Vũng Tàu, Trà Vinh, Cà Mau) với 34 chiến sĩ đã vượt biển ra Bắc an toàn và trở thành những người chiến sĩ trụ cột của Đoàn 759 Hải quân, chính thức khai thông tuyến vận tải tiếp vận vũ khí Bắc - Nam. Lịch sử con đường huyền thoại - Đường Hồ Chí Minh trên biển bắt đầu từ đó. Tháng 9-1962, chuyến hàng đầu tiên từ Bắc vào Nam do tàu Phương Đông 1 thực hiện vượt qua trăm nghìn thử thách, cập bến an toàn.

Trong lịch sử binh chủng Hải quân có một sự kiện đáng ghi nhớ liên quan đến sự ra đời của Đoàn 759 tiền thân của Lữ đoàn 125 anh hùng, đơn vị chủ lực thực hiện nhiệm vụ bí mật chuyên chở vũ khí vào Nam đánh Mỹ trong suốt 15 năm 1961-1975. Ngày 16-3-1961, nhân chuyến đi thăm cán bộ, chiến sĩ một đơn vị Hải quân Việt Nam tại Cảng Hải Phòng, vịnh Hạ Long (tiếp bà Đặng Dĩnh Liên, phu nhân cố Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Bờ biển ta có vị trí rất quan trọng. Vì vậy, nhiệm vụ của Hải quân trước mắt cũng như lâu dài rất nặng nề nhưng rất vẻ vang. Phải biết tìm ra cách đánh phù hợp với điều kiện con người, địa hình bờ biển nước ta và vũ khí trang bị mình có. Hải quân ta phải học tập kinh nghiệm chiến đấu hiện đại nhưng không được quên truyền thống đánh giặc xa xưa kia của Tổ tiên”. Lời dặn của Người là kim chỉ nam định hướng phương châm cách đánh địch, thắng địch trên mặt trận hải chiến gay go, ác liệt. Đó còn là mệnh lệnh đối với sĩ quan và chiến sĩ Đoàn 759 được thành lập ngày 23-10-1961.

Vào lúc 20 giờ ngày 28-5-2011, tại TP.Hồ Chí Minh, khán giả đã được giao lưu với ông Đặng Bá Tiên, là thuyền trưởng con thuyền gỗ đầu tiên từ Bến Tre vượt trùng dương ra Bắc và thủy thủ Nguyễn Văn Đức (cùng đoàn Bến Tre) cũng là một trong những chiến sĩ đầu tiên trên chuyến tàu chở vũ khí về Nam thành công. Chương trình giao lưu được truyền hình trực tiếp để khán giả cả nước theo dõi và cùng trải nghiệm. Cuộc đời chiến sĩ và hành trình của những Đoàn tàu không số được tái hiện chân thực, sinh động và gợi bao niềm khâm phục, tự hào cho thế hệ hôm nay.

Trong tài liệu lịch sử Biên niên Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam (1954-1975) in năm 2008 có ghi: Tỉnh ủy Bến Tre tổ chức hai chuyến: chuyến thứ nhất xuất phát ngày 17-8-1961 ở Rạch Doi, do đồng chí Sáu Giáo (Đặng Bá Tiên - NV) chỉ huy; chuyến thứ hai xuất phát ngày 18-8-1961, do đồng chí Lê Công Cẩn chỉ huy. Tuy nhiên, tại buổi giao lưu (ngày 28-5-2011) vừa qua, các nhân chứng lịch sử là các chiến sĩ trên 5 chiếc thuyền gỗ “mở đường” cách nay 50 năm đều thống nhất, chuyến đầu tiên xuất phát vào ngày 1-6-1961. Việc xác định thời gian chính xác chuyến vượt biển ra Bắc của đoàn Bến Tre năm 1961 do ông Đặng Bá Tiên làm thuyền trưởng rất cần các nhà viết sử thẩm định, nghiên cứu thêm. Riêng các khía cạnh liên quan đến bài học kinh nghiệm đúc kết từ việc tổ chức hai chuyến tàu ra Bắc thành công của đoàn Bến Tre cho đến hôm nay cần được đúc kết và kế thừa. Đó là bài học về tuyển chọn và huấn luyện cán bộ, bài học về chuẩn bị cơ sở vật chất và bài học về tổ chức thực hiện kế hoạch.

 

Bốn viên đá được đặt trang trọng tại lễ khởi công xây dựng công trình Công viên nghĩa trang Đường Hồ Chí Minh trên biển, xã Thạnh Phong - Thạnh Phú. Ảnh: T.C

 

Thứ nhất, thực hiện chỉ đạo của Xứ ủy Nam Bộ từ đầu năm 1961, Tỉnh ủy Bến Tre tích cực lựa chọn và huấn luyện cán bộ, chiến sĩ chuẩn bị thật tốt các điều kiện và phương án thực hiện nhiệm vụ “mở đường” ra Bắc nhận vũ khí bằng tuyến vận tải trên biển Đông. Từ hàng trăm cán bộ, chiến sĩ có kinh nghiệm, thành tích đánh địch trên địa bàn sông nước được thử thách qua các trận đánh trong phong trào Đồng Khởi năm 1960, tỉnh lựa chọn được 18 chiến sĩ nòng cốt quen nghề cá, quen đi biển, đa số xuất thân là ngư dân tại ba huyện Ba Tri, Bình Đại, Thạnh Phú. Các chiến sĩ được biên chế thành hai đội. Mỗi đội sinh hoạt tách rời nhau để bảo đảm bí mật. Mỗi đội có thuyền trưởng chỉ huy và 5 thuyền viên, có tổ chức Đảng làm hạt nhân lãnh đạo nhiệm vụ toàn đội, đặc biệt trong những tình huống hiểm nguy khi hoạt động trên biển. Đồng chí Nguyễn Văn Khước là thành viên Khu ủy Khu 8 và đồng chí Nguyễn Thị Định - Bí thư Tỉnh ủy trực tiếp chỉ đạo việc tổ chức huấn luyện đội ngũ cán bộ chiến sĩ trong thời gian trước khi nhận nhiệm vụ vượt biển ra Bắc. Việc huấn luyện thủy thủ tập trung ở cả hai khâu kỹ năng đi biển dài ngày trong điều kiện thời tiết xấu và kỹ năng ứng phó với địch khi chúng sử dụng tàu sắt, máy bay phát hiện và truy bắt. Tình huống xấu nhất là đánh trả địch, thậm chí cho nổ tàu, thủy thủ hy sinh cũng được đặt ra.

Thứ hai, việc chuẩn bị thuyền, trang thiết bị chu đáo là điều kiện tạo nên thành công cho chuyến hành trình vượt biển. Ông Đặng Bá Tiên đã kể lại, hai con thuyền ra Bắc của đoàn Bến Tre là loại thuyền đánh cá có buồm cánh dơi được ngụy trang như thuyền ngư dân đánh cá ngoài khơi, do vậy thuyền nào cũng phải có ngư cụ để các thuyền viên “tập dượt” như ngư dân thật với yêu cầu từ hình thức tới động tác làm sao không để địch phát hiện khi chúng tiếp cận, tra hỏi. Ngoài thức ăn và nước ngọt, mỗi đội được trang bị bản đồ, la bàn và ống nhòm để tăng khả năng xác định hướng di chuyển, phát hiện tàu địch để có biện pháp đối phó phù hợp. Thậm chí có thuyền còn được đưa ra biển đi thực tế dài ngày để kiểm tra khả năng, độ vững chắc của cột buồm khi gặp sóng to, gió lớn. Trong thực tế, chuyến thứ hai khởi hành, do thuyền trưởng Lê Công Cẩn chỉ huy, đã gặp tình huống thời tiết không thuận lợi này. Song, do đã lường trước nên con thuyền đã vượt biển an toàn sau hơn một tuần lênh đênh trên biển cả. Kinh nghiệm sông nước, ý chí quyết tâm, sức mạnh đoàn kết, tinh thần dám xả thân vì nhiệm vụ cách mạng của thủy thủ những con tàu không số Bến Tre là những yếu tố quyết định để các đội hoàn thành nhiệm vụ cao cả và bí mật của mình.

Thứ ba, bài học về công tác tổ chức Đường Hồ Chí Minh trên biển Đông trước hết là vai trò lãnh đạo kịp thời, nhạy bén và xuyên suốt của Trung ương, Xứ ủy Nam Bộ, Khu ủy Khu 8. Việc hình thành và phát triển tuyến vận tải vũ khí Bắc - Nam trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, kẻ thù sử dụng nhiều khí tài, vũ khí hiện đại là sự sáng tạo trong nghệ thuật quân sự Việt Nam. Tài, trí của Bộ Chỉ huy Đoàn 759 kết hợp sức mạnh của lực lượng Hải quân Việt Nam và lực lượng bộ đội địa phương tạo nên trận thế mới, lực mới mà kẻ địch dù mạnh cũng không thể hủy diệt được. Hệ thống kho bãi và các đoàn vận tải trên sông nước tại các địa phương tạo nên thế liên hoàn, kịp thời cung cấp vũ khí cho các chiến trường.

 

Kỳ cuối: Vai trò, vị trí của đầu cầu tiếp vận vũ khí Bắc - Nam của Bến Tre trong huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển

 

Ông Nguyễn Văn Đông xúc động khi xem lại những hình ảnh về
“tàu không số”. Ảnh: H.VŨ

Bờ biển Thạnh Phú, nơi có những địa danh nổi tiếng như Cồn Tra, Cồn Lợi, Vàm Khâu Băng gắn liền với Đường Hồ Chí Minh trên biển huyền thoại. Nơi đây là điểm xuất phát của những con thuyền vượt biển ra Bắc, báo cáo kịp thời tình hình cách mạng miền Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Đây cũng là đầu cầu tiếp nhận vũ khí của Trung ương chi viện. Từ năm 1963 đến năm 1971, đã có 27 chuyến tàu cập các bến Thạnh Phú với trên 2.000 tấn vũ khí các loại, kịp thời phục vụ cho cuộc chiến đấu của chiến sĩ, đồng bào miền Nam. Vậy là, năm 1946, nữ thuyền trưởng Nguyễn Thị Định chỉ huy con thuyền vượt trùng dương ra gặp Trung ương Đảng và Bác Hồ xin vũ khí về Nam đánh Pháp. Năm 1960, thực hiện Nghị quyết 15, Đảng bộ và nhân dân Bến Tre đã làm nên một phong trào Đồng Khởi oai hùng, mở màn cho sự trỗi dậy của cách mạng miền Nam thực hiện đến cùng lời hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Năm 1961, Bến Tre cũng là một trong những địa phương đi đầu trong quá trình “mở đường” Đường Hồ Chí Minh trên biển. Đường mòn Hồ Chí Minh xẻ dọc dãy Trường Sơn ở phía Tây và Đường Hồ Chí Minh trên biển ở phía Đông mang xứ mệnh thiêng liêng tiếp vận vũ khí, con người trong kháng chiến, là mạch máu của Tổ quốc và là gọng kìm bao vây quân xâm lược. Ngay từ cuối năm 1961, tổng thống Mỹ lúc bấy giờ là Ken-nơ-đi đã thú nhận với phóng viên nước ngoài về nỗi e sợ thất bại, “hiện giờ, chúng ta gặp vấn đề trong việc chứng minh sức mạnh của mình, và Việt Nam là nơi đang diễn ra điều đó”.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, Tỉnh ủy Bến Tre đã chỉ đạo việc biên soạn, bổ sung tài liệu quan trọng: “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bến Tre”. Việc biên soạn tài liệu này gắn liền với nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ trong từng giai đoạn. Song, sự thống nhất xuyên suốt từ trước đến nay đều khẳng định ý nghĩa lịch sử, giá trị khoa học quân sự to lớn của sự kiện mở đường tiếp vận vũ khí Bắc-Nam trên biển của quân dân Bến Tre trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Đó là, từ cuộc vượt biển mở đường lần thứ nhất năm 1946 do đồng chí Nguyễn Thị Định chỉ huy đến cuộc vượt biển lần thứ hai đầu năm 1961 đã góp phần giúp Trung ương, Bộ Quốc phòng nắm chắc tình hình cách mạng đi đến quyết định mở đường vận tải vũ khí trên biển Đông chi viện cho chiến trường miền Nam.

Quân và dân Bến Tre tự hào và xúc động về những chiến công oai hùng đã trở thành huyền thoại của những chiến sĩ Đoàn tàu không số làm nên Đường Hồ Chí Minh trên biển. Kỷ niệm 50 năm Ngày mở Đường “Đường Hồ Chí Minh trên biển” (23-10-1961 - 23-10-2011), không chỉ lực lượng Hải quân mà toàn quân, toàn dân hiểu thêm, khâm phục hơn sự tài trí táo bạo, tư duy chiến lược, nghệ thuật quân sự của bộ đội Cụ Hồ dưới sự lãnh đạo của Đảng. Do hoàn cảnh chiến tranh và chế độ bảo mật, nhiều tư liệu về đường Hồ Chí Minh trên biển đến nay mới được công bố. Thiết nghĩ, Đảng, Nhà nước đã có quyết định lấy ngày 23-10 hàng năm làm ngày kỷ niệm truyền thống Mở đường Đường Hồ Chí Minh trên biển và thành lập Lữ đoàn 125 Hải quân. Tuy nhiên, sự hình thành con đường tiếp vận vũ khí Bắc - Nam đã có từ năm 1946. Đó là sự thật lịch sử mà căn cứ khoa học cũng khá nhiều. Có được một ngày chính thức kỷ niệm chuyến vượt biển đầu tiên vào cuối tháng 3-1946 của đại diện quân dân Khu 8 và cả Nam Bộ ngay thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp 9 năm là rất cần thiết. Vai trò nữ thuyền trưởng Nguyễn Thị Định trong cuộc vượt biển gặp Trung ương, gặp Bác Hồ xin vũ khí về Nam đánh Pháp, cũng như việc hình thành các đại đội đặc công thủy, nữ đặc công thủy Bến Tre trong kháng chiến chống Mỹ, nhất là sau phong trào Đồng Khởi năm 1960, là sự nối tiếp và phát triển nghệ thuật chiến tranh nhân dân trên địa bàn sông nước biển cả. 65km bờ biển Bến Tre còn in dấu bao chiến công và sự hy sinh thầm lặng của bộ đội, du kích trên mặt trận thủy chiến, hải chiến, tạo nên nét độc đáo trong nghệ thuật quân sự, nghệ thuật chiến tranh nhân dân địa phương mang khát vọng cháy bỏng của cả đất nước.

Đường Hồ Chí Minh - con đường huyền thoại thể hiện sinh động tài, trí, nghệ thuật quân sự Việt Nam. Trong lịch sử quân sự nhân loại từ xưa đến nay, không có con đường nào như vậy. Là con đường nhưng không có đường, là đường đi nhưng không để lại dấu vết, rồi “Đoàn tàu không số”, không bến cố định, đường Hồ Chí Minh trên biển đã buộc kẻ thù rơi vào thế bị động, nhìn mà không thấy, bao nhiêu bom đạn và vũ khí, khí tài quân sự của quân xâm lược cũng không hủy diệt được. Kẻ thù khiếp sợ, thất bại một phần cũng vì điều đó.

Xã Thạnh Phong, huyện Thạnh Phú - Bến Tre được vinh dự chọn làm đất thiêng để xây dựng công trình mang tầm vóc quốc gia: Công viên Nghĩa trang - Đường Hồ Chí Minh trên biển của cả nước. Nơi đây, tuy không có những ngôi mộ cụ thể nhưng là Đền thiêng đời đời Tổ quốc ghi công những anh hùng liệt sĩ đã anh dũng hy sinh trên biển Đông trong quá trình thực hiện nhiệm vụ vận tải vũ khí Bắc - Nam trong suốt cuộc trường chinh kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của dân tộc. Nơi đây cũng trở thành biểu tượng của ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh hải của dân tộc. Xây dựng thế trận phòng thủ vững chắc, củng cố và phát triển tự vệ biển, gắn nhiệm vụ phát triển kinh tế và nhiệm vụ quốc phòng - an ninh, thực hiện hiệu quả Chiến lược Biển của Đảng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của địa phương trong giai đoạn cách mạng hiện nay.

Thiết thực kỷ niệm 50 năm Ngày mở đường “Đường Hồ Chí Minh trên biển”, bên cạnh các hoạt động tuyên truyền, giao lưu, triển lãm, trình chiếu phim tư liệu về chiến sĩ, chiến công của các đơn vị của Lữ đoàn 125 Hải quân, còn nhiều vấn đề cần được các địa phương, các nhà khoa học, nhà giáo dục quan tâm. Đó là, tiếp tục nghiên cứu về đầu cầu tiếp vận vũ khí Bắc- Nam tại Bến Tre trong kháng chiến chống Pháp, vai trò và vị trí của quân dân Bến Tre trong việc cung cấp nhân lực cho các chuyến tàu vượt biển chở vũ khí vào Nam và bảo vệ, vận chuyển kho vũ khí cho các chiến trường. Ngành Văn hóa thể thao cần sưu tầm hiện vật, tư liệu liên quan đến đầu cầu tiếp vận vũ khí tại Bến Tre. Việc hiệu đính các số liệu, thời gian sự kiện có liên quan đến các nội dung lịch sử cần chính xác, khoa học hơn. Bài học về mở đường “Đường Hồ Chí Minh trên biển” cũng sẽ là bài học, là “cẩm nang” để thế hệ trẻ hôm nay luôn năng động và kiên trì trên con đường học vấn, lao động và cống hiến xứng đáng với tài, trí của cha anh ngày trước, để vững tin, tiếp nối truyền thống “mở đường” trong tiếp cận nền kinh tế tri thức, thực hiện Chiến lược kinh tế biển, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa quê hương trong thế trận Đồng Khởi mới hôm nay.

Tháng 5-2011

 

 

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN