Nghệ thuật chiến tranh nhân dân trong phong trào Đồng Khởi (tiếp theo kỳ trước)

18/12/2009 - 10:16

Thực tế lịch sử tại Bến Tre là minh chứng hùng hồn cho tư tưởng chủ động tiến công dưới ánh sáng Nghị quyết 15 của Trung ương. Chỉ trong một ngày 17-1-1960, lực lượng đấu tranh chính trị của quần chúng với sự hỗ trợ của các tổ xung kích, tổ hành động đã diệt ác, trừ gian, phá rã bộ máy kìm kẹp của địch tại 3 xã: Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh (huyện Mỏ Cày).

Theo tư tưởng quân sự của Hồ Chí Minh, có tư tưởng chiến lược tiến công thì mới có hành động tiến công. Có chủ động mới phát triển được thế tiến công. Tinh thần tiến công, kỹ chiến thuật tiến công của quân và dân trong phong trào Đồng Khởi tại Bến Tre năm 1960 được thể hiện toàn diện theo phương châm “hai chân, ba mũi” cùng chủ động hợp lực, chủ động chọn thời cơ, nắm bắt đặc điểm địa hình, địa vật và dựa vào tình hình cụ thể để bố trí lực lượng, chọn hướng tiến công để giành thắng lợi từng phần, từng bước mở mảng, mở vùng giải phóng, tạo thế liên hoàn trong tiến công và phòng ngự để tạo thế tiến công. Đúng như Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “…Làng nào, huyện nào, tỉnh nào cũng có du kích, thì nó thành một tấm lưới sắt, một thứ “thiên la, địa võng” mà địch không tài gì thoát ra được”.
Khi nói đến Đồng Khởi Bến Tre năm 1960, không thể không nhắc đến hình ảnh: quần chúng nổi dậy và đội quân tóc dài. Đây là hình ảnh kết tinh từ phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân, song ở mức độ khác nhau về thế tiến công, mức độ chủ động tiến công của lực lượng cách mạng. Trước khi phong trào Đồng Khởi nổ ra, tại Bến Tre phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng đã dâng cao nhưng khẩu hiệu khi ấy tập trung đòi quyền dân sinh, dân chủ, chống cướp đất, bắt lính… theo chủ trương của Đảng là phải khéo léo, mềm dẻo, dùng lý lẽ để thuyết phục, giằng co với địch, tránh manh động. Điển hình như cuộc đấu tranh của hơn 1.000 nông dân tại Ba Tri đả đảo Tổng Son năm 1956. 500 đồng bào kéo lên Sài Gòn biểu tình cuối năm 1958 hưởng ứng phong trào đấu tranh lên án Mỹ- Diệm đầu độc giết hại 1.000 tù nhân ở trại giam Phú Lợi. Hàng vạn quần chúng trong tỉnh kéo về thị xã, thị trấn biểu tình và tổ chức cầu siêu cho người bị hại. Một số tổ hành động và đồng bào vì quá căm thù địch mà “vượt rào” dùng chiến thuật “vi cảnh hóa” để trừ khử một số tên ác ôn nhiều nợ máu với nhân dân.
Khi phong trào Đồng Khởi đợt I nổ ra mà khởi đầu tại 3 xã: Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh (huyện Mỏ Cày), các tổ chức Đảng tại cơ sở đã tận dụng thế đấu tranh hợp pháp của quần chúng để diệt ác, phá kìm, hình thành thế tiến công từ mũi giáp công đấu tranh chính trị. Kỳ tích của đấu tranh chính trị, một biểu hiện cao của chiến tranh nhân dân, là sử dụng lực lượng quần chúng đông đảo, dùng đấu tranh trực diện để bẻ gãy các cuộc tiến công của quân chủ lực Mỹ- ngụy có máy bay, xe tăng, tàu thủy yểm trợ khi chúng càn quét vào 3 xã trọng điểm với chủ trương dập tắt “cái ung nhọt Kiến Hòa”.
Trong ba ngày 17, 18,
19-1-1960, quần chúng nổi dậy giải phóng 3 xã: Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh, thì đến ngày 21-1-1960, địch kéo 1 tiểu đoàn thủy quân lục chiến đi đường bộ và đường sông tạo thế gọng kìm bao vây, càn quét vào 2 xã Phước Hiệp, Bình Khánh. Lực lượng vũ trang ta khi ấy còn mỏng, với các tiểu đội mới thành lập và trang bị súng lấy được của giặc đã dựa vào địa hình mương, vườn thực hiện chiến thuật chiến tranh du kích tiêu hao sinh lực địch, vừa chiến đấu phòng ngự trong thế tiến công. Trong trận này, lần đầu tiên súng ngựa trời do du kích sáng chế khai hỏa làm kẻ địch sợ hãi. Cuộc chiến đấu không cân sức kéo dài ròng rã hơn 1 tháng. Chi bộ xã Phước Hiệp họp khẩn cấp để tìm cách đối phó tình hình, vì địch bao vây lâu ngày sẽ gây tổn thất cho phong trào. Và giải pháp sau cùng là phải dùng đấu tranh chính trị. Ta thuyết phục các gia đình nạn nhân bị địch bắt, giết, hãm hiếp cùng nhân dân các xã lân cận hình thành cuộc biểu tình 5.000 người từ xã kéo lên thị trấn đấu tranh và được binh lính đồng tình, không dám can ngăn. Trước áp lực đấu tranh của nhân dân, tên quận trưởng lo sợ phải ra mặt trực tiếp giải quyết yêu sách của nhân dân và cho lính rút quân. Qua trận này, Tỉnh ủy Bến Tre đúc kết kinh nghiệm: Ngay khi cuộc đồng khởi nổ ra, ta vẫn có thể dùng đấu tranh chính trị trực diện, dùng thế hợp pháp để đẩy lùi các cuộc càn quét, bảo tồn lực lượng, tạo khí thế và điều kiện cho phong trào nổi dậy đều khắp trên phạm vi toàn tỉnh. Lực lượng cách mạng phát triển nhanh, gấp 20 lần so với thời kỳ trước ngày 17-1-1960. Mỗi xã tập trung xây dựng 1 tiểu đội vũ trang được trang bị súng và sử dụng vũ khí thô sơ và lấy cách đánh du kích làm chủ yếu.
Đỉnh cao của đấu tranh chính trị trong phong trào Đồng Khởi tại Bến Tre năm 1960 là cuộc “thử lửa” chống chiến dịch “Bình định Kiến Hòa’ với lực lượng hơn 10.000 quân chủ lực của Mỹ- ngụy hòng dập tắt “cái ung nhọt Kiến Hòa”. Từ sự kiện này đã xuất hiện chiến thuật “tản cư ngược” và tên gọi đi vào lịch sử- “Đội quân tóc dài”. Mở đầu chiến dịch, giữa tháng 3-1960, Ngô Đình Diệm cùng sĩ quan cao cấp, tình báo đến Bến Tre thị sát tình hình, trấn an ngụy quân, ngụy quyền tại đây. Ngày 25-3-1960 địch tấn công càn quét 3 xã trung tâm đồng khởi, huy động lực lượng lớn gồm 2 lữ đoàn thủy quân lục chiến, 2 tiểu đoàn biệt kích, 1 tiểu đoàn dù, 3 tiểu đoàn khinh binh, 2 tiểu đoàn bảo an lưu động điều từ Cần Thơ, Mỹ Tho, Trà Vinh. Tham gia “Bình trị Kiến Hòa”đợt này, địch sử dụng 70 xe tải quân sự để cơ động, 4 xe thiết giáp dọn đường, 2 pháo đoàn, trong đó có 4 pháo 105 ly. Trên đường bộ đã vậy, mũi đường sông có 17 tàu chiến triển khai đội hình tạo thế bao vây, chia cắt địa hình 3 xã thành những mảng nhỏ để tiêu diệt lực lượng cách mạng. Ý đồ của địch là dùng chiến thuật “đầu nhọn, đuôi dài”, dùng hỏa lực mạnh đánh vào trung tâm xã, dùng lực lượng bao vây siết chặt gọng kìm. Tỉnh ủy Bến Tre khi ấy đã nắm được ý đồ của địch, đã vạch phương án di chuyển khỏi địa bàn, song không kịp, bởi các ngã đường trên bộ, trên sông đều bị lực lượng địch án ngữ, tình thế thật cam go!
Đồng chí Nguyễn Thị Định và Ban Lãnh đạo Tỉnh ủy khẩn trương tìm phương cách chống càn. Phương châm khi ấy là lực lượng vũ trang tỉnh (Đại đội 261) và các đội du kích lập ấp, xã chiến đấu, tránh đối đầu trực tiếp quân chủ lực ngụy, thường xuyên tạo trận địa giả nghi binh đánh lừa địch, đồng thời chuẩn bị lực lượng quần chúng cho đấu tranh chính trị khi cần thiết. Bộ đội du kích dựa vào địa hình, kênh mương, vườn dừa, bờ mía… có lợi để phục kích diệt địch rồi cơ động chuyển hướng. Có lúc ta bố trí lực lượng xen kẽ giữa 2 cánh quân địch rồi nổ súng và rút êm, địch tiến đánh rồi bắn lẫn nhau. Ta bố trí vũ khí thô sơ, gài mìn, lựu đạn, đào hầm chông để cầm chân địch hoặc buộc các toán quân địch phải đi vào khu vực bộ đội ta đã mai phục. Các dì, các chị được phân công trên nhiều tuyến lộ để phao tin giả về hướng di chuyển của du kích. Lực lượng vũ trang ta tuy ít ỏi nhưng “xuất quỷ nhập thần”, dẫn dụ địch vào nơi hiểm yếu khiến kẻ thù có mắt như mù, không phát huy được lợi thế về quân số và hỏa lực. Trong lúc địch lo đối phó với cách đánh du kích của ta, lực lượng đấu tranh chính trị đã chuẩn bị kế họach “tác chiến”.
Sáng ngày 1-4-1960, hàng nghìn nhân dân chủ yếu là phụ nữ của 3 xã: Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh đi trên hàng trăm ghe, xuồng chở theo quần áo, mùng mền, heo gà, xoong nồi… bồng bế cả trẻ con “tản cư ngược” lên thị trấn Mỏ Cày. Lại thêm 5.000 đồng bào các xã lân cận cùng hưởng ứng, tiếp sức. Đoàn người bao kín các ngả đường, ăn ở khắp các trường học, thánh thất, các con đường quanh trụ sở quận, yêu cầu quận trưởng cho nương náu, rồi tố cáo lính chủ lực cướp của, giết người, đốt nhà dân, hãm hiếp phụ nữ. Mũi binh vận vận động gia đình binh sĩ ngụy đòi chồng, con em trở về. Cả thị trấn náo động suốt 12 ngày đêm. Ta bố trí lực lượng đi đấu tranh có bộ phận trực diện đòi yêu sách, bộ phận hậu cần tiếp tế lương thực. Quận trưởng Mỏ Cày rơi vào thế bí, phải kháng cáo lên tổng tham mưu ngụy quyền Sài Gòn yêu cầu rút quân chủ lực về. Chiến dịch “Bình trị Kiến Hòa” của Mỹ- Diệm bị bẻ gãy. Ta diệt, bắt sống và làm bị thương 600 tên địch, thu 150 súng, trừng trị 100 tên chỉ điểm, ác ôn có nợ máu với nhân dân. Từ sự kiện này, tiếng vang của “Đội quân tóc dài” Bến Tre làm nức lòng nhân dân trong tỉnh, kẻ thù lo sợ trước phong trào nổi dậy của phụ nữ Bến Tre. Tỉnh ủy Bến Tre nhanh chóng đúc kết kinh nghiệm và tranh thủ thời gian địch rút quân để chuyển căn cứ cách mạng từ huyện Mỏ Cày về xã Châu Bình (huyện Giồng Trôm). Trung tuần tháng 4-1960, tại đây, Tỉnh ủy tổ chức hội nghị mở rộng tổng kết phong trào nổi dậy của Đảng bộ và nhân dân Bến Tre thực hiện Nghị quyết 15 của Trung ương. Hội nghị đã khẳng định, qua gần 4 tháng thực hiện sáng tạo Nghị quyết 15, tình thế cách mạng tại Bến Tre từ bị động phòng ngự đã chuyển lên phản công, tạo được thế chủ động chiến lược. 21/115 xã đồng lọat nổi dậy diệt ác, phá kìm giành quyền làm chủ, giải phóng được vùng nông thôn rộng lớn. Tổ chức Đảng từ hoạt động bí mật chuyển sang hoạt động công khai.

Huỳnh Văn Be

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN