
Sản xuất cây giống ở xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách. Ảnh: CTV
KHPT KT-XH cấp xã được tiến hành hàng năm hoặc 2 năm 1 lần, trong đó chính quyền địa phương và cộng đồng tiến hành một quá trình lập kế hoạch kỹ lưỡng từ (i) phân tích tình hình KT-XH tự nhiên, xác định các ưu tiên và can thiệp, xác định và huy động ngân sách, các kế hoạch hành động. KHPT KT-XH là khung pháp lý quan trọng nhất để phát triển nền KT-XH tự nhiên của xã. KHPT KT-XH giúp tập hợp tất cả các nguồn lực sẵn có đồng thời đảm bảo xu hướng chủ đạo và lồng ghép hiệu quả các hoạt động trong xã. KHPT KT-XH cấp xã sẽ cung cấp dữ liệu cho KHPT KT-XH cấp huyện và cấp tỉnh. Theo đó, các tỉnh và huyện dự kiến sẽ phân bổ các nguồn lực để bổ sung cho việc thực hiện KHPT KT-XH.
KHPT KT-XH sẽ giúp tạo khuynh hướng chủ đạo cho quy hoạch quản lý rừng ngập mặn dựa vào cộng đồng bình đẳng giới, tập trung vào thích ứng với biến đổi khí hậu, quản lý rủi ro thiên tai, các lựa chọn sinh kế kinh tế và quy hoạch hàng hóa vào quá trình phát triển KT-XH.
Việc xác định và lựa chọn nguyên tắc, nỗ lực lập kế hoạch và quá trình thực hiện tiếp theo sẽ đòi hỏi đầu tư đáng kể vào việc xây dựng năng lực để vận hành các hoạt động một cách có hiệu lực và hiệu quả. Khung xây dựng năng lực sẽ được phát triển nhắm vào các chủ đề, lĩnh vực, giai đoạn và các tác nhân cụ thể. Việc đánh giá nhu cầu nâng cao năng lực được tổ chức dưới các hình thức khác nhau sẽ cung cấp dữ liệu cho khung về nhu cầu năng lực thực tế. Khung xây dựng năng lực sẽ được trình bày chi tiết trong quá trình thiết kế và được cập nhật trong quá trình thực hiện dự án.
Tiểu hợp phần 2.2, triển khai các cơ chế khuyến khích tài chính (FIM). Kết quả đầu ra này là cốt lõi của dự án hỗ trợ xác định và thiết lập cơ chế tài trợ cho các phương án quản lý rừng ngập mặn mới. Các dự án do IFAD tài trợ tại Việt Nam khẳng định nhu cầu cao của cả doanh nghiệp nông thôn và nông dân sản xuất nhỏ và những thách thức trong việc tiếp cận các dịch vụ tài chính.
Một khuôn khổ đồng quản lý bền vững đòi hỏi phải có các cơ chế khuyến khích tài chính (FIM) để tự duy trì và mang lại lợi ích cho các bên tham gia. Ngoài việc xây dựng các đổi mới cụ thể, dự án CM-FIM cũng tìm cách thiết lập một lộ trình đổi mới bằng cách tiếp tục xác định và hỗ trợ các lựa chọn cho các cơ chế khuyến khích tài chính thúc đẩy quản lý bền vững đất ngập nước ven biển.
Dự án CM-FIM sẽ tạo điều kiện và đảm bảo rằng các dịch vụ tài chính hiện có trong khu vực sẽ tiếp cận được tới các khu vực dự án và các đối tượng hưởng lợi của dự án, đặc biệt là các hộ nông dân sản xuất nhỏ dễ bị tổn thương về khí hậu và các doanh nghiệp sống trong và xung quanh các khu vực rừng ngập mặn. Các dịch vụ tài chính hiện có bao gồm Quỹ phát triển phụ nữ (WDF); Quỹ quay vòng của Nhóm đồng sở thích (CG); Quỹ hỗ trợ nông dân (FSF); Quỹ hỗ trợ khởi nghiệp do Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh quản lý và Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa do Sở Công Thương tỉnh Trà Vinh quản lý.
Bên cạnh các cơ chế tài chính hiện có, dự án CM-FIM sẽ tìm kiếm và khởi xướng các cơ chế khuyến khích tài chính bổ sung thúc đẩy đồng quản lý bao gồm chi trả cho các dịch vụ của hệ sinh thái rừng (PFES). Quỹ này hiện do Chính phủ Việt Nam khởi xướng nhằm bù đắp cho những nỗ lực bảo vệ rừng thông qua việc trả một số tiền nhất định cho các chủ rừng (khoảng 5 - 7 USD/ha/năm). Công cụ chi trả DVMTR vẫn chưa được phổ biến rộng rãi kể cả trong khu vực dự án. Trong khi đó, IFAD đã khởi xướng một cơ chế chi trả DVMTR khác trong một dự án do IFAD tài trợ ở miền Bắc Việt Nam trên cơ sở tự nguyện thu hút các bên liên quan. PFES sẽ được phân tích kỹ hơn trong bối cảnh CM-FIM và được xem xét áp dụng.
Hoàng Triều