Quê tôi ở một xã nghèo ven biển. Tôi theo cha đi làm ăn và xa quê từ nhỏ. Ngày giỗ ông nội và các cô dượng đã khuất, tôi thường theo cha về quê. Ở nhà trên, cha cùng mấy bác, mấy chú bày biện bàn thờ. Tôi là “phận nữ nhi” được giao xuống bếp phụ bà nội “chỉ đạo” nấu đồ cúng.
Bếp chật, người đông, bà nội vui, cười móm mém, kể chuyện ngày xưa. Lửa hồng thắm đỏ. Ngày giỗ lại là ngày đoàn viên, con cháu mọi nơi tụ hội. Sau này, tôi mới biết, để có củi dùng trong ngày giỗ, nội đã lụi cụi đi lượm củi khô mấy tháng trời về để dành. Bà nội đã mất mấy chục năm, nhưng cho đến tận bây giờ hình ảnh bà nội, ngọn lửa bếp củi trong nếp nhà lá bình dị và tình cảm của bà với con cháu vẫn in đậm trong tôi. Nó như ngọn lửa thần kỳ nồng ấm, thân thương để tôi giữ được sự thăng bằng trong tinh thần mỗi khi chao đảo trước bao chuyện mưu sinh nơi phố thị.
Trong cuộc sống hiện đại hôm nay, còn bao người nhớ về bếp củi của bà, của mẹ? Chắc không nhiều lắm! Bởi, bây giờ để nấu cơm, người ta đã có nồi cơm điện, bếp từ, bếp gas, thậm chí cả bếp nấu bằng dầu lửa. Nói vậy không có nghĩa là bếp củi đã bị thay thế. Không xa đâu, chỉ cách trung tâm thành phố Bến Tre đôi ba cây số, về các xã Mỹ Thành, Phú Nhuận, Sơn Đông… trong một bộ phận không nhỏ người dân nơi đây vẫn dùng củi để nấu ăn hàng ngày.
Cách nay không lâu, vớt củi ven sông mùa nước lớn là nghề mưu sinh của không ít người nghèo. Chắc đã thành thói quen, thành tập tục của một bộ phận cư dân sống ven sông, sát kênh rạch, cứ vào mùa mưa bão, mùa nước lên, nghề vớt củi trôi sông lại “xuất hiện”. Rất đơn giản, chỉ cần một cái bao, một cây sào là có thể “lượm củi” trên sông. Giờ “nghề” này đã thất truyền, nhưng không vì thế mà ngọn lửa bếp củi trong mỗi nếp nhà không rực cháy.
So với mấy chục năm trước, thế giới đã nhiều đổi thay, người ta khám phá những điều kỳ lạ, có cả phát minh bếp sử dụng năng lượng ánh sáng mặt trời. Nhưng với người quê tôi, nếp sống xưa vẫn còn lưu giữ, trong đó có việc nấu ăn bằng bếp củi. Thành phố Bến Tre đang trên đường xây dựng đô thị loại 2, mọi nhà đều nâng cấp nội thất hiện đại hơn. Nhưng sau những ngôi nhà cao tầng vẫn còn những vườn dừa, các hộ vẫn dành một góc để bếp củi. Cuộc sống hiện đại bộn bề, hối hả. Những lo toan để “thắt lưng buộc bụng” để tiết kiệm nguồn chi là “duyên cớ” cho nhiều hộ gia đình hồi tưởng và kết nối nếp sống xưa - tận dụng nguồn cây khô, lá khô quanh nhà để nấu nướng. Nghe thân thương tiếng củi cháy tí tách, thoang thoảng mùi thơm của gỗ dù không thơm ngát, ngọt ngào bằng hương rơm, rạ mùa thu hoạch. Tôi chợt nhớ lại hình ảnh người bà tóc bạc phơ, liêu xiêu dáng gầy đi lượm củi khô trong sân vườn xưa yên ắng nơi miền quê xã nghèo ven biển. Nhớ như in ngày ấy, trong tiết xuân được ngồi nấu bánh tét bên bà. Không khí thật ấm áp, con cháu quấn quýt quanh bà, nghe bà chỉ dạy về cách nấu nướng, những câu chuyện về dòng họ, cách ứng xử với bà con xóm giềng, cách giữ lửa khi nấu bếp củi, sự tích Ông Táo. Nói như người hiện đại, người bà của tôi cũng như bao người bà trong mọi gia đình là nội tướng, bếp trưởng, và sâu sắc hơn là người giữ lửa, giữ hồn quê và bao giá trị văn hoá truyền thống cần giữ gìn. Chợt nhớ câu nói triết lý “Có ai biết, trong tro còn lửa?”, mới hiểu và trân trọng một vẻ đẹp bình dị giữa đời thường trong vô vàn những người sống quanh ta. Đó là vẻ đẹp của bà, của mẹ, của chị đang âm thầm, nhẫn nhịn “xây tổ ấm” và “giữ lửa” trong mỗi gia đình.