Từ bỏ phú quý, đi theo tiếng gọi non sông
Sinh năm 1918, là con trai độc
nhất trong một gia đình khá giả ở xã Tân Hào, tướng mạo cao lớn, giỏi chơi cờ
tướng và đá banh rất hay, nhưng Đồng Văn Cống không như những “công tử” con nhà
địa chủ, phú nông thời bấy giờ chỉ biết hưởng thụ cá nhân. Theo tiếng gọi non
sông thời ly loạn, ông đã sớm giác ngộ lý tưởng cách mạng, tham gia hoạt động
bí mật từ năm 1936, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 16-2-1939,
làm Bí thư chi bộ kiêm Tổng ủy viên, là một trong những người lãnh đạo nhân dân
nổi dậy giành chính quyền tại địa phương vào năm 1945. Trong những ngày đầu của
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lần thứ hai, do chênh lệch về lực lượng
nên chỉ một thời gian ngắn, giặc đã đánh chiếm gần như toàn tỉnh Bến Tre, đi
đến đâu chúng cũng bắn giết, đốt nhà, cướp của, gây ra nhiều tội ác dã man với
nhân dân. Trước tình hình đó, ngày 12-2-1946, Đồng Văn Cống đứng ra thành lập Đội du kích Tân
Hào, tuy chỉ có 36 người với bốn súng lửa (súng săn), còn lại là mã tấu, dao
găm, lựu đạn… nhưng ngay sau khi thành lập, Đội du kích Tân Hào đã tổ chức phục
kích đánh tiêu hao một trung đội lính lê dương tại cầu bà Ba Ngỡi, tối đến Đội
tiếp tục tập kích tiêu diệt bọn địch trú quân ở chợ Hương Điểm, gây tiếng vang
lớn trong vùng. Dưới tài chỉ huy thao lược và sự đức độ trong thu phục
nhân tâm của Đồng Văn Cống, Đội du kích Tân Hào không ngừng lớn mạnh, liên tục đánh thắng nhiều trận,
trong đó có trận lập mưu dụ địch vào Bàu Dơi để tiêu diệt. Đội du kích Tân Hào
trở thành “Bộ đội Tân Hào” mà nhân dân thường trìu mến gọi là “Bộ đội ông Cống”
với câu văn vần truyền khẩu: “Bộ đội ông Cống, đóng ở Bàu Dơi, Tây vô đánh
chơi, thằng nào đốt nhà dân, đả đảo”.
Người chỉ huy mưu lược, anh cả của
Lực lượng vũ trang Bến Tre
Ngày 1-5-1946, theo
chỉ đạo của Huyện ủy Giồng Trôm, một phân đội vũ trang tập trung của huyện được
thành lập, đây cũng là đơn vị bộ đội địa phương đầu tiên của tỉnh Bến Tre mà
người chỉ huy và chiến sĩ không ai khác, chính là “Bộ đội ông Cống”. Dưới sự
chỉ huy của Đồng Văn Cống, Phân đội vũ trang Giồng Trôm đã nhiều phen làm cho
kẻ thù kinh hồn bạt vía, tiêu biểu là trận Châu Phú (Châu Hòa) ngày 10-5-1946,
diệt gọn một tiểu đội lính Pháp hành quân bằng đường sông, thu 12 súng, trong
đó có khẩu trung liên là hỏa lực mạnh lúc bấy giờ.
Cuối tháng 9-1946, lực lượng vũ trang Bến Tre có bước phát
triển mới cả về lượng và chất, một đơn vị Vệ quốc đoàn ra đời mang phiên hiệu
Chi đội 19. Lúc này, Tỉnh ủy Bến Tre điều động Đồng Văn Cống làm Chi đội
trưởng, cán bộ chiến sĩ đa số cũng từ “Bộ đội ông Cống” trưởng thành lên. Điều
đặc biệt là trong Chi đội 19 còn có một tiểu đội chiến sĩ quốc tế gồm các quốc
tịch: Pháp, Đức, Nga, Nhật, An-giê-ri, Ma-rốc… họ là những tù hàng binh được
cách mạng cảm hóa, giáo dục và tham gia chiến đấu dưới trướng người chỉ huy tài
ba Đồng Văn Cống.
Khoảng giữa tháng 10-1946, Chi đội 19 xuất quân đánh trận
đầu tiêu diệt đồn Cầu Giấy (Lộc Thuận, Bình Đại) và chặn viện tiêu diệt gần hết
tiểu đoàn quân Pháp ở Thới Lai, thu 100 súng, có 7 trung liên. Mùng 2 Tết Đinh
Hợi năm 1947, dưới sự chỉ huy của Đồng Văn Cống, Chi đội 19 dùng chiến thuật
vận động phục kích ở Lộ Quẹo, tiêu diệt gần một tiểu đoàn quân Pháp có xe bọc
thép yểm trợ, mưu toan chiếm xã Tân Hào. Kết quả, ta phá huỷ một xe bọc thép,
thu trên 150 súng các loại, trong đó có súng máy 12,7mm, đại liên, trung liên,
súng chống tăng Pi-át, nhiều đạn và lựu đạn giúp cho Chi đội trang bị mạnh hơn.
Tiếp theo, nhờ sự phối hợp của quần chúng và cơ sở nội tuyến, ngay giữa ban
ngày, một bộ phận của Chi đội 19 đã tấn công tiêu diệt một đại đội địch ở vàm
Nước Trong (Định Thủy, Mỏ Cày); phục kích địch ở Phú Lễ (Ba Tri) diệt gọn 6 xe
quân sự, 132 tên Pháp, thu 100 súng các loại. Chi đội 19 còn đánh thắng nhiều
trận khác ở Ba Tri, An Hóa, Châu Thành… gây cho địch nhiều tổn thất.
Ngày 23-6-1947, Khu bộ trưởng Khu 8 quyết định thành lập
Trung đoàn 99 trên cơ sở Chi đội 19, có bổ sung thêm một số đơn vị bộ đội địa
phương và dân quân tự vệ trong tỉnh, Đồng Văn Cống tiếp tục được giao trọng
trách làm Trung đoàn trưởng. Phối hợp với chiến trường cả nước, Trung đoàn 99
liên tục chiến đấu và giành quyền chủ động chiến trường trong tỉnh. Ngoài ra,
một đơn vị của Trung đoàn còn được phái sang Sa Đéc (Đồng Tháp) phối hợp với
bạn đánh quân ngụy mang danh Hòa Hảo đang tàn sát nhân dân. Kết quả đến cuối
năm 1947, Bến Tre giải phóng được phần lớn đất đai.
Trung đoàn 99 dưới sự chỉ huy của Đồng Văn Cống không những
đánh giặc giỏi mà còn làm rất tốt công
tác vận động quần chúng, giúp dân sản xuất, tuyên truyền võ trang vào vùng tạm
chiếm, vận động tín đồ tôn giáo và công chức ngụy quyền tham gia kháng chiến. Trung
đoàn 99 cũng chính là đơn vị nòng cốt để hình thành nên các tiểu đoàn chủ lực
của Khu 8 như: Tiểu đoàn 307, 308, 310. Đầu năm 1950, chiến dịch Bến Tre được
mở ra trên hướng huyện Chợ Lách và Mỏ Cày, Đồng Văn Cống cùng với Khu bộ phó
Khu 8 Nguyễn Đăng trực tiếp chỉ huy. Khi quân ta vào địa bàn Cái Mơn thì có rất
đông bà con Công giáo, có cả linh mục ra tặng quà cho bộ đội, họ tỏ lòng tri ân
việc bộ đội đối xử tử tế với vị giám mục, phóng thích quận trưởng Chợ Lách và
nhiều ngụy quân, ngụy quyền là tín đồ Công giáo bị ta bắt trước đây. Lần gặp gỡ
này, bộ đội giành nhiều thời gian thăm hỏi đồng bào, phổ biến chính sách của
cách mạng, chính nghĩa của kháng chiến. Sau khi được giác ngộ cách mạng, tập
thể đội kèn đồng của Họ đạo Cái Mơn đã tự nguyện đi theo ông Cống tham gia
kháng chiến. Trung đoàn 99 của Đồng Văn Cống vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh
tặng danh hiệu “Trung đoàn gương mẫu”, được biểu dương thành tích trong toàn
thể Quân đội quốc gia Việt Nam.
Hoàn thành nhiều trọng
trách của Đảng, Nhà nước và Quân đội
Sau chiến dịch Bến Tre, Trung đoàn 99 giải thể theo chủ
trương của trên, Đồng Văn Cống được Bác Hồ ký quyết định phong hàm Đại đoàn phó
và được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn Đồng Tháp chủ lực của Khu 8. Năm
1951, Đồng Văn Cống trở về Bến Tre đảm nhiệm chức vụ Tỉnh đội trưởng. Ông dũng
cảm vượt qua mọi hiểm nguy, ngược xuôi khắp ba dải cù lao để móc nối xây dựng
cơ sở, tập hợp và phát triển lực lượng vũ trang địa phương làm nòng cốt cho
nhân dân nổi dậy, diệt ác ôn, triệt hạ đồn bót, phá rã phần lớn lực lượng chiếm
đóng, giải phóng nhiều vùng nông thôn, giành lại ruộng đất cho nông dân.
Giữa năm 1953, Đồng Văn Cống nhận nhiệm vụ Ủy viên Thường vụ
Khu ủy kiêm Tham mưu trưởng Phân Liên khu miền Đông. Ông là thành viên của Ban
Liên hiệp đình chiến Trung ương, tham gia hội nghị Trung Giã trong phái đoàn
Quân đội nhân dân Việt Nam đàm phán với đại diện Quân đội Pháp thực hiện Hiệp
định Giơ-ne-vơ. Năm 1954, Đồng Văn Cống được phong hàm đại tá, là Tư lệnh Sư
đoàn 330, được cử đi học quân sự ở nước ngoài. Trở về nước, ông đảm nhiệm nhiều
chức vụ khác nhau ở Bộ Quốc phòng như: Phó Tư lệnh Quân khu Hữu Ngạn, Uỷ
viên Thường vụ Liên Khu ủy Khu III, Cục phó Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu… Thời
kỳ này, ông là một trong những người có công lớn trong việc mở tuyến đường Hồ
Chí Minh trên biển để chi viện cho chiến trường miền Nam. Năm 1963, ông về Nam chiến
đấu, tiếp tục được Đảng, Quân đội giao nhiều trọng trách quan trọng: Tư lệnh Khu
8, Khu 9; Thứ trưởng Bộ Quốc phòng thuộc Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa
Miền Nam Việt Nam, Phó Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam. Ông là vị tướng chiến
trường, cùng tập thể tướng lĩnh xuất sắc của Quân Giải phóng miền Nam chỉ huy chiến đấu ở chiến trường Nam bộ. Trong chiến
dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ông giữ quyền chỉ huy sở Bộ Tư lệnh Miền kiêm Tư lệnh
Quân đoàn dự bị, sẵn sàng đối phó nếu Mỹ tái can thiệp vũ trang, là vị tướng có
mặt sớm nhất ở Sài Gòn để tổ chức tiền trạm đón Bộ Tư lệnh Miền và Bộ Chỉ huy
chiến dịch Hồ Chí Minh vào tiếp quản Sài Gòn. Ông là đại biểu Quốc hội của nước
Việt Nam
thống nhất (khóa VI). Thời kỳ chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, Đồng Văn
Cống là Tư lệnh tiền phương, dẫn đầu một cánh quân sang giúp Campuchia thoát
khỏi họa diệt chủng Pôn-pốt. Trước khi về hưu, Trung tướng Đồng Văn Cống là Tư
lệnh Quân khu 7, Phó Tổng Thanh tra Quân đội nhân dân Việt Nam. Những năm cuối
đời, Trung tướng Đồng Văn Cống tham gia Hội Cựu chiến binh Việt Nam, là Trưởng
Ban liên lạc đồng hương Bến Tre tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông rất tích cực
trong các hoạt động khuyến học, đền ơn đáp nghĩa, xoá đói giảm nghèo, giúp nạn
nhân chất độc da cam/đi-ô-xin…
Một tấm gương sáng
ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng
Cuộc đời của Trung tướng Đồng Văn Cống là hiện thân của chủ
nghĩa anh hùng cách mạng, người con ưu tú của quê hương Giồng Trôm đất thép
thành đồng. Ông không những là một đảng viên kiên trung, nhà cách mạng chân
chính, luôn thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước, tinh thần quốc tế vô sản mà còn là
tấm gương sáng ngời về một cuộc đời tận trung với nước, tận hiếu với dân, suốt
đời cống hiến, phục vụ cho lý tưởng cộng sản và hạnh phúc của nhân dân. Vợ và
các con ông cũng là những cán bộ, sĩ quan ưu tú của Quân đội, người con trai duy
nhất là phi công chiến đấu và đã anh dũng hy sinh khi còn rất trẻ. Ông đã được
Đảng, Nhà nước tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quí: Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng,
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc
lập hạng nhất; Huân chương Kháng chiến hạng nhất; Huân chương Chiến thắng hạng
nhất; Huân chương Quân công hạng nhất, nhì, ba; 2 Huân chương Chiến công hạng
nhất; Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng nhất; Huân chương Quân kỳ quyết thắng và
nhiều phần thưởng khác.
Trung
tướng Đồng Văn Cống đã về cõi vĩnh hằng vào ngày 6-8-2005, phần mộ của ông hiện
nằm ở Nghĩa trang Liệt sĩ tỉnh. Tưởng nhớ đức độ, tài thao lược, công lao đóng
góp to lớn của ông trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, Đảng
bộ, chính quyền, nhân dân, lực lượng vũ trang Bến Tre, cựu chiến binh, các tổ
chức, cá nhân trong và ngoài tỉnh đã tự nguyện đóng góp đúc tượng Trung tướng
Đồng Văn Cống và xây Đền thờ tại ấp Tân Thị, xã Tân Hào. Đền thờ Trung tướng
Đồng Văn Cống đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre công nhận là di tích lịch
sử, văn hóa cấp tỉnh.