 |
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đại biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, tháng 9-1960. Ảnh tư liệu |
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm và coi trọng việc đại hội Đảng các cấp. Ngay từ những ngày đầu mới thành lập Đảng - ngày 3-2-1930; với tư cách là phái viên của Quốc tế cộng sản, Bác đã chủ động triệu tập và chủ trì hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản trong nước thành một đảng gọi là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, điều lệ vắn tắt do Bác soạn thảo. Những văn kiện đó đã hợp thành cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta.
Hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản ngày 3-2-1930 có ý nghĩa như đại hội thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ I. Đến năm 1951, Bác đã cùng Trung ương Đảng lãnh đạo tổ chức Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II thành công tốt đẹp. Đến năm 1960, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III lại được tổ chức. Trong thời điểm đó, miền Bắc đã giành được độc lập tự do, đang xây dựng chủ nghĩa xã hội; miền Nam đang bị chia cắt theo hiệp định Giơ-ne-vơ. Mặc dù vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt rất cao vị trí của đại hội Đảng. Trong bài: “Một cách thảo luận dự thảo điều lệ Đảng”, Bác Hồ đã viết: “Đại hội Đảng rất quan hệ đến tương lai cách mạng của Đảng ta và nhân dân ta. Đại hội sẽ làm cho Đảng ta đoàn kết, càng đoàn kết hơn nữa, tư tưởng và hành động nhất trí, càng nhất trí hơn nữa. Cho nên, toàn thể đồng chí ta phải thảo luận kỹ càng các đề án và đóng góp ý kiến dồi dào, để đảm bảo Đại hội thành công thật tốt đẹp…Đại hội Đảng là một dịp rèn luyện chính trị rất quan trọng và rộng khắp cho toàn Đảng. Cho nên, tất cả các đảng viên cần phải hăng hái tham gia thảo luận…Thảo luận như thế nào cho có kết quả tốt”. Người nhấn mạnh: “Theo tôi thì có một cách tốt nhất là: Trước khi thảo luận, mỗi một đồng chí cần nghiên cứu thật kỹ bản dự thảo Điều lệ Đảng. Khi thảo luận ở mỗi chi bộ, thì mỗi đồng chí phải liên hệ đúng đắn Điều lệ Đảng với công tác của chi bộ và của mình để góp ý đầy đủ ý kiến với đại hội Đảng. Phải thành khẩn tự phê bình tư tưởng và công tác của mình, sửa chữa những khuyết điểm để củng cố tốt chi bộ và để rèn luyện mình thành người đảng viên tốt…Ví dụ: Phần cương lĩnh nói chung về tính chất Đảng, thì phải liên hệ mình đã đứng thật vững trên lập trường giai cấp công nhân chưa? Mình đã thật gương mẫu trong mọi việc chưa? Phần nhiệm vụ của chi bộ, thì phải liên hệ chi bộ ấy đã thực hiện những nhiệm vụ ấy thế nào? Có thiếu sót gì và cần sửa chữa như thế nào?... trong những hoạt động chính trị của mình trước kia và hiện nay, việc đúng và việc sai mình đã thật thà nói hết với Đảng chưa? Hay còn giấu giếm phần nào?”. Cuối cùng Bác tổng kết: “Nói tóm lại phải lấy mười điểm nhiệm vụ của đảng viên mà đối chiếu một cách thật thà với tư tưởng và hành động của mình”. Trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo tổ chức Đại hội Đảng, Bác chỉ rõ: “Để các chi bộ thảo luận tốt, thì cấp trên phải lãnh đạo, giúp đỡ, theo dõi, rút kinh nghiệm. Có khi các chi bộ nêu các câu hỏi khó, nếu chưa chắc chắn thì nên hỏi Trung ương, không nên giải thích hoặc trả lời một cách miễn cưỡng. Phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả các đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình, phải gom ý kiến của đảng viên để giúp đỡ Trung ương chuẩn bị Đại hội Đảng cho thật tốt… Trong dịp chuẩn bị Đại hội Đảng, các đảng viên và chi bộ cần phải kết hợp chặt chẽ với công tác của mình”.
Tư tưởng đạo đức và lời giáo huấn của Bác từ đại hội Đảng lần thứ III (1960) cho đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị, vẫn mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Chính những lời giáo huấn của Bác như nhắc nhở các cấp ủy Đảng và mỗi đảng viên cần phải quán triệt sâu sắc việc chuẩn bị và tiến hành đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI của Đảng.