Với nhiệm
vụ là thu thập, mua sắm và tổ chức cơ sở sản xuất vũ khí phục vụ cho chiến trường,
lực lượng chiến sĩ ngành Quân giới đã không ngừng nghiên cứu thiết kế, sản xuất
nhiều loại vũ khí có trình độ kỹ thuật cao để đánh xe tăng, tàu chiến… của địch.
Ở miền Nam, Quân giới Nam Bộ, trong đó có các chiến sĩ Quân giới Bến Tre đã giữ
vai trò quan trọng trong việc bảo đảm vũ khí tại chỗ cho quân chủ lực, bộ đội địa
phương, du kích, công an và quân tình nguyện ở Nam Bộ, phục vụ cho lực lượng vũ
trang (LLVT) của ta chiến đấu và chiến thắng.
Ngày đầu
thành lập xưởng sửa chữa, sản xuất vũ khí
Dưới ánh sáng Nghị quyết số 15 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, Tỉnh ủy Bến Tre chủ trương đấu tranh chính trị kết hợp với
vũ trang để đánh bại chế độ độc tài của Mỹ ngụy Sài Gòn tàn ác. Sau sự kiện Đồng
khởi vào ngày 17-1-1960, Bến Tre giải phóng được nhiều xã, mở rộng nhiều vùng,
LLVT cũng phát triển mạnh, đòi hỏi phải có nhiều vũ khí trang bị cho bộ đội
đánh giặc. Do vậy, Tỉnh ủy chủ trương thành lập xưởng sửa chữa súng đạn và sản
xuất vũ khí để cung cấp kịp thời cho bộ đội.
Những ngày đầu thành lập xưởng, điều kiện vô
cùng khó khăn, cơ sở vật chất của ta cất giấu để tập kết ra Bắc bị địch tàn phá
tan tác không còn gì, ta phải làm lại từ đầu. Tiết kiệm từng chút nguyên liệu,
len lỏi mua sắm vật tư, thiết bị để sản xuất. Lúc bấy giờ chủ yếu là sửa chữa
súng đạn, đơn vị đóng quân ở xã Bình Khánh (Mỏ Cày) với quân số hơn 10 đồng
chí.
Đến đầu năm 1961, đơn vị được chuyển về căn cứ
rừng Thạnh Phú. Lúc này tập hợp lại thợ trước đây và tuyển thợ mới ở các nơi về,
mua sắm thêm thiết bị, vật tư tương đối khá, xưởng ổn định và sản xuất được nhiều
mặt hàng như: các loại lựu đạn gài, lựu đạn ném, phóng lựu, địa lôi, ngựa trời…
Đặc biệt, súng đạn ngựa trời có tẩm chất độc, khi bị sát thương thì sẽ dễ bị
nhiễm trùng, làm cho địch hoang mang, khiếp sợ.
Trong giai đoạn này, do lực lượng ta phát triển
mạnh, nhu cầu vũ khí cũng tăng lên nên Tỉnh ủy thành lập công binh xưởng (công
trường) ở khắp các huyện, xã trong toàn tỉnh để sản xuất phục vụ kịp thời cho bộ
đội ta đánh giặc. Đặc biệt, lối đánh du kích kết hợp vũ khí thô sơ với chông,
mìn cạm bẫy, ong vò vẽ của ta đã tạo thành thế trận liên hoàn bao vây đánh địch
có hiệu quả cao.
Đến năm 1963, tiếp nhận vũ khí từ miền Bắc
vào bị địch phát hiện, đánh phá ác liệt, có trận kéo dài 21 ngày đêm liên tục,
nhưng với tinh thần và ý chí tiến công nên các chiến sĩ ngành Quân giới đã kiên
cường bám trụ để sản xuất. Trong thời gian này, có nhiều lúc các chiến sĩ sản
xuất vũ khí không có gạo ăn, thiếu nước uống nhưng đã vượt qua khó khăn, hoàn
thành tốt nhiệm vụ.
Càng về sau tình hình càng ác liệt hơn, địch
bao vây hết các ngả đường bộ lẫn đường sông. Vì vậy, việc vận chuyển vũ khí
cung cấp cho chiến trường bị gián đoạn. Trước tình hình đó, Tỉnh ủy chỉ đạo tổ
chức thêm Phân xưởng Tiền phương. Đơn vị có nhiệm vụ theo sát bộ đội, sửa chữa
vũ khí đạn và sản xuất một số loại lựu đạn, mìn đánh thủy, đánh bộ và cả đánh địch
đường không; cải tiến thêm một số loại bom đạn để đánh lại địch rất có hiệu quả.
Phân xưởng
Tiền phương vừa sản xuất vũ khí, vừa đánh giặc
Lúc thành lập, Phân xưởng Tiền phương có từ 5
- 10 người, càng về sau quy mô càng lớn hơn, có lúc lên đến 30 - 40 người, và
được chia thành nhiều cụm (Mỏ Cày, Giồng Trôm, Châu Thành) để khắc phục sự chia
cắt của địch.
Ông Nguyễn Chí Công - Chính trị viên Phân xưởng
Tiền phương lúc bấy giờ, nay là Trưởng Ban liên lạc Quân giới tỉnh, cho biết:
“Phân xưởng Tiền phương vừa làm nhiệm vụ sản xuất vũ khí và đồng thời tham gia
đánh giặc để bảo vệ cơ quan, đơn vị. Một số trận đánh tôi cùng với các đồng đội
thực hiện thành công đó là: Trận tập kích ở xã Long Mỹ (Giồng Trôm), đã xóa sổ
một đại đội bộ binh của địch vào năm 1969. Năm 1970, đánh hư hỏng nặng một tàu chiến,
đánh rơi 7 máy bay trực thăng (gồm 3 trận). Lập được nhiều chiến công, có rất
nhiều anh em trong đơn vị đạt danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ”, trong đó đồng chí Võ
Viết Thanh được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang”.
Tham gia đánh địch, các chiến sĩ Phân đội Tiền
phương đã sáng tạo trong việc chế tạo vũ khí kết hợp với việc lợi dụng địa hình
để kẻ thù không kịp trở tay. Điển hình là trận đánh vào năm 1970, tại ấp 8, xã
Lương Phú (Giồng Trôm), đã làm rơi 3 chiếc máy bay của địch. “Nắm được địa điểm
và thời gian đổ quân của địch, chúng tôi đã giới hạn lại khu vực đổ quân của
chúng bằng việc cài chông. Bởi khu vực đổ quân là một cánh đồng rộng lớn, nếu
không làm như vậy thì tài khí của ta không đủ để tiêu diệt chúng. Sau đó, chúng
tôi chế tạo bom, mìn và cài ở nơi không có đặt chông. Biết được khi đổ quân, trực
thăng sẽ sà xuống sát đất và tạo nên gió, chúng tôi đã buộc dây vào những tàu
mo cau với kíp nổ. Khi gặp gió, những tàu mo cau sẽ bay và giật kíp nổ, gây
thương vong cho địch” - ông Chí Công cho biết.
Có thể nói, trải qua các cuộc kháng chiến,
ngành Quân giới Bến Tre đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử, xứng đáng là đại
biểu của giai cấp công nhân, của quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Lực lượng
chiến sĩ Quân giới đã không ngại gian lao, nguy hiểm để sản xuất vũ khí, tham
gia chiến đấu, góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc.