Vang danh chiến sĩ ngành Quân giới Bến Tre

13/09/2015 - 16:40

Nguyễn Chí Công (ngồi bên phải) cưa bom ở Phân xưởng tiền phương Giồng Trôm. Ảnh: Phúc Hậu

Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), ngày 15-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị thành lập Phòng Quân giới, nay là Tổng Cục Công nghiệp quốc phòng, đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng. 

Với nhiệm vụ là thu thập, mua sắm và tổ chức cơ sở sản xuất vũ khí phục vụ cho chiến trường, lực lượng chiến sĩ ngành Quân giới đã không ngừng nghiên cứu thiết kế, sản xuất nhiều loại vũ khí có trình độ kỹ thuật cao để đánh xe tăng, tàu chiến… của địch. Ở miền Nam, Quân giới Nam Bộ, trong đó có các chiến sĩ Quân giới Bến Tre đã giữ vai trò quan trọng trong việc bảo đảm vũ khí tại chỗ cho quân chủ lực, bộ đội địa phương, du kích, công an và quân tình nguyện ở Nam Bộ, phục vụ cho lực lượng vũ trang (LLVT) của ta chiến đấu và chiến thắng.

Ngày đầu thành lập xưởng sửa chữa, sản xuất vũ khí

Dưới ánh sáng Nghị quyết số 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tỉnh ủy Bến Tre chủ trương đấu tranh chính trị kết hợp với vũ trang để đánh bại chế độ độc tài của Mỹ ngụy Sài Gòn tàn ác. Sau sự kiện Đồng khởi vào ngày 17-1-1960, Bến Tre giải phóng được nhiều xã, mở rộng nhiều vùng, LLVT cũng phát triển mạnh, đòi hỏi phải có nhiều vũ khí trang bị cho bộ đội đánh giặc. Do vậy, Tỉnh ủy chủ trương thành lập xưởng sửa chữa súng đạn và sản xuất vũ khí để cung cấp kịp thời cho bộ đội.

Những ngày đầu thành lập xưởng, điều kiện vô cùng khó khăn, cơ sở vật chất của ta cất giấu để tập kết ra Bắc bị địch tàn phá tan tác không còn gì, ta phải làm lại từ đầu. Tiết kiệm từng chút nguyên liệu, len lỏi mua sắm vật tư, thiết bị để sản xuất. Lúc bấy giờ chủ yếu là sửa chữa súng đạn, đơn vị đóng quân ở xã Bình Khánh (Mỏ Cày) với quân số hơn 10 đồng chí.

Đến đầu năm 1961, đơn vị được chuyển về căn cứ rừng Thạnh Phú. Lúc này tập hợp lại thợ trước đây và tuyển thợ mới ở các nơi về, mua sắm thêm thiết bị, vật tư tương đối khá, xưởng ổn định và sản xuất được nhiều mặt hàng như: các loại lựu đạn gài, lựu đạn ném, phóng lựu, địa lôi, ngựa trời… Đặc biệt, súng đạn ngựa trời có tẩm chất độc, khi bị sát thương thì sẽ dễ bị nhiễm trùng, làm cho địch hoang mang, khiếp sợ.

Trong giai đoạn này, do lực lượng ta phát triển mạnh, nhu cầu vũ khí cũng tăng lên nên Tỉnh ủy thành lập công binh xưởng (công trường) ở khắp các huyện, xã trong toàn tỉnh để sản xuất phục vụ kịp thời cho bộ đội ta đánh giặc. Đặc biệt, lối đánh du kích kết hợp vũ khí thô sơ với chông, mìn cạm bẫy, ong vò vẽ của ta đã tạo thành thế trận liên hoàn bao vây đánh địch có hiệu quả cao.

Đến năm 1963, tiếp nhận vũ khí từ miền Bắc vào bị địch phát hiện, đánh phá ác liệt, có trận kéo dài 21 ngày đêm liên tục, nhưng với tinh thần và ý chí tiến công nên các chiến sĩ ngành Quân giới đã kiên cường bám trụ để sản xuất. Trong thời gian này, có nhiều lúc các chiến sĩ sản xuất vũ khí không có gạo ăn, thiếu nước uống nhưng đã vượt qua khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Càng về sau tình hình càng ác liệt hơn, địch bao vây hết các ngả đường bộ lẫn đường sông. Vì vậy, việc vận chuyển vũ khí cung cấp cho chiến trường bị gián đoạn. Trước tình hình đó, Tỉnh ủy chỉ đạo tổ chức thêm Phân xưởng Tiền phương. Đơn vị có nhiệm vụ theo sát bộ đội, sửa chữa vũ khí đạn và sản xuất một số loại lựu đạn, mìn đánh thủy, đánh bộ và cả đánh địch đường không; cải tiến thêm một số loại bom đạn để đánh lại địch rất có hiệu quả.

Phân xưởng Tiền phương vừa sản xuất vũ khí, vừa đánh giặc

Lúc thành lập, Phân xưởng Tiền phương có từ 5 - 10 người, càng về sau quy mô càng lớn hơn, có lúc lên đến 30 - 40 người, và được chia thành nhiều cụm (Mỏ Cày, Giồng Trôm, Châu Thành) để khắc phục sự chia cắt của địch.

Ông Nguyễn Chí Công - Chính trị viên Phân xưởng Tiền phương lúc bấy giờ, nay là Trưởng Ban liên lạc Quân giới tỉnh, cho biết: “Phân xưởng Tiền phương vừa làm nhiệm vụ sản xuất vũ khí và đồng thời tham gia đánh giặc để bảo vệ cơ quan, đơn vị. Một số trận đánh tôi cùng với các đồng đội thực hiện thành công đó là: Trận tập kích ở xã Long Mỹ (Giồng Trôm), đã xóa sổ một đại đội bộ binh của địch vào năm 1969. Năm 1970, đánh hư hỏng nặng một tàu chiến, đánh rơi 7 máy bay trực thăng (gồm 3 trận). Lập được nhiều chiến công, có rất nhiều anh em trong đơn vị đạt danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ”, trong đó đồng chí Võ Viết Thanh được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang”.

Tham gia đánh địch, các chiến sĩ Phân đội Tiền phương đã sáng tạo trong việc chế tạo vũ khí kết hợp với việc lợi dụng địa hình để kẻ thù không kịp trở tay. Điển hình là trận đánh vào năm 1970, tại ấp 8, xã Lương Phú (Giồng Trôm), đã làm rơi 3 chiếc máy bay của địch. “Nắm được địa điểm và thời gian đổ quân của địch, chúng tôi đã giới hạn lại khu vực đổ quân của chúng bằng việc cài chông. Bởi khu vực đổ quân là một cánh đồng rộng lớn, nếu không làm như vậy thì tài khí của ta không đủ để tiêu diệt chúng. Sau đó, chúng tôi chế tạo bom, mìn và cài ở nơi không có đặt chông. Biết được khi đổ quân, trực thăng sẽ sà xuống sát đất và tạo nên gió, chúng tôi đã buộc dây vào những tàu mo cau với kíp nổ. Khi gặp gió, những tàu mo cau sẽ bay và giật kíp nổ, gây thương vong cho địch” - ông Chí Công cho biết.

Có thể nói, trải qua các cuộc kháng chiến, ngành Quân giới Bến Tre đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử, xứng đáng là đại biểu của giai cấp công nhân, của quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Lực lượng chiến sĩ Quân giới đã không ngại gian lao, nguy hiểm để sản xuất vũ khí, tham gia chiến đấu, góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc.

Quốc Hùng

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN