Võ Trường Toản – Nhà giáo lớn đầu tiên của Nam bộ, cho đến nay chưa có nhà nghiên cứu nào tìm ra ông sinh năm nào, học chữ của ai, ở đâu. Chỉ biết rằng tổ tiên ông là người Trung Hoa, do không chấp nhận ách thống trị khắc nghiệt của bọn phong kiến Mãn Thanh, theo tàn quân Minh chạy sang nước ta lánh nạn (dân ta gọi là người Minh Hương). Lúc đầu gia đình ông sống ở làng Thanh Khê, Quãng Đức – nay là Thừa Thiên - Huế. Sau đó không lâu ông cùng gia đình hòa vào đoàn người đi mở cõi phương Nam, định cư ở Bình Dương, Gia Định.
Ông là người học rộng tài cao, đức độ, khiêm hòa, nhân hậu, thông đạt kim cổ. Bấy giờ Nguyễn Ánh đang lúc gặp nguy vì việc mưu chống nhà Tây Sơn, nghe tiếng ông là người tài trí, bèn cho dời ông đến để thăng quan, trọng đãi, ông một mực từ khước. Dù vậy, sau đó ông dâng lên Chúa Nguyễn 10 điều quan yếu, liên quan đến mưu lược hành quân và kế sách trị nước sau này của Gia Long. Từ đó, Gia Long thường mời ông luận bàn quốc sự và kinh sách rất tương đắc.
Năm 1788, có mở khoa thi, các học trò của ông đều đỗ đầu bảng. Như Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Định (ba nhân vật này sau là những công thần nổi tiếng của triều Nguyễn, đựơc người đời xưng tụng là: “Gia định tam gia thi”). Ngoài ra còn một số học trò của ông cũng rất lẫy lừng, hoạt động rất nhiều lĩnh vực. Như Phan Tiến Đường, Ngô Tùng Châu, Lê Bá Phẩm… Tất cả họ đã lấy sở học của mình ra giúp dân, giúp nước làm rạng danh thầy Võ. Giới nho học bấy giờ tôn ông là “Võ Phu tử”.
Ông hạ thế ngày mùng 9 tháng 6 năm Nhâm Tý, tức ngày 27-7-1792 tại làng Hòa Hưng, phủ Tân Bình. Bấy giờ vua nhà Nguyễn cảm đức tuyên dương công nghiệp thầy Võ với dòng chữ: “Gia Định xử sĩ sùng đức Võ Tiên sinh”, được ghi trên bia mộ. Để kính cẩn công đức tài ba lỗi lạc của thầy, các học trò của ông đã đề câu liễn: “Sinh tiền giáo huấn đắc nhân, vô tử như hữu tử. Một hậu thinh danh tại thế, tuy vong giả bất vong”. (Dịch nghĩa: Lúc sống dạy dỗ được người không con cũng như có. Chết tiếng tăm còn để, mất mà chẳng mất).
Năm 1865, năm Tự Đức thứ 18, giặc Pháp đánh chiếm thành Gia Định, mặc dù không trực tiếp học ông, nhưng quan đại thần Phan Thanh Giản, cùng với Nguyễn Thông, Võ Gia Hội, Phạm Hữu Chánh do nể vì, cảm kích tài ba của nhà giáo lớn, theo truyền thống tôn sư trọng đạo, nhóm sĩ phu này đã đưa di hài ông cùng với vợ và ấu nữ về cải táng tại đất cụ Phan Thanh Gian ở làng Bảo Thạnh, huyện Bảo An, tỉnh Vĩnh Long (nay là xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre), để tránh gót giầy xâm lược. Văn bia được cụ Phan Thanh Giản viết năm Tự Đức thứ 20 (1867) đến nay hãy còn. Ngoài ra thầy Võ còn được trang trọng thờ phụng trong Văn Xương Các ở Vĩnh Long.
Sự nghiệp của Võ Trường Toản là giáo dục, đào tạo nhân tài. Ông đọc sách rất nhiều và có nhiều trước tác. Nhưng do thời cuộc nên đến nay chỉ còn lưu giữ bài phú “Hiếu trung, hoài cổ phú”. Bài phú này ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần yêu nước của giới sĩ phu trong phong trào chống Pháp ở Nam kỳ. Tác giả người Pháp G. Coulet viết về Hội kín chống Pháp ở Nam kỳ khẳng định “Hiếu trung hoài cổ phú đã được dùng làm tài liệu huấn luyện cho nhiều tổ chức chống pháp. Đặc biệt là phong trào Đông du do Phan Bội Châu khởi xướng. Đến hai nhà thơ cự phách ở đất cù lao - Nguyễn Đình Chiểu và Phan Văn Trị cũng chịu ảnh hưởng ông rất lớn tư tưởng của Võ Trường Toản.
Địa chính thành phố Hồ Chí Minh ghi: “Trường tư nổi tiếng nhất là trường tư của Tôn sư Võ Trường Toản ở Hòa Hưng. Sau đó có ông Chiêu, ông Nghè (học trò cụ)”. Sở dĩ việc giáo dục của ông đạt được kết quả và thanh thế vang lừng như thế là do ông áp dụng phương pháp giảng dạy rất khoa học. Ông giáo hóa học trò mình bằng nghĩa lý của thánh hiền. Nhưng không phải học thuộc lòng, mà phải biết ứng dụng nghĩa, lý ấy vào việc rèn luyện ý chí và nghị lực để biết hành xử và xử thế. Ông dạy học trò mình “tri ngôn” phải “dưỡng khí” để “tập nghĩa”, ấy là “hào khí” vậy. Ông chỉ rõ sách đại học có 1.700 chữ, trong đó hàm chứa sâu xa, vô số sự vật, về phương pháp dạy chữ cũng như dạy người.
Từ cuộc đời thân thế và sự nghiệp lớn ấy, nên ngày 21-11-1988 (Ngày Nhà giáo Việt Nam) Báo Sài Gòn Giải Phóng và Giáo dục – Đào tạo TP. Hồ Chí Minh đã quyết định lấy tên ông làm tên giải thưởng, để trao cho các nhà giáo có nhiều cống hiến cho sự nghiệp giáo dục. Cũng trong năm đó Bộ Văn hóa đã trao bằng công nhận Di tích lịch sử quốc gia khu mộ ông và tôn tạo lại miếu thờ ông.