Giới thiệu cho học sinh Diễn xướng dân gian Nói thơ Vân Tiên tại Di tích Quốc gia đặc biệt Mộ và Khu lưu niệm Nguyễn Đình Chiểu. Ảnh: Ngọc Thạch
Loại hình diễn xướng dân gian
Sự nghiệp văn thơ của Danh nhân Nguyễn Đình Chiểu gắn liền với nhiều tác phẩm thơ văn nổi tiếng như: Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Dương Từ - Hà Mậu, Ngư tiều y thuật vấn đáp… Trong đó, tác phẩm truyện thơ Nôm Lục Vân Tiên được xem là một trong những tác phẩm lớn có sức sống qua nhiều thế hệ. Có thể nói, Lục Vân Tiên là tập thơ đầu tiên và nổi tiếng nhất trong sự nghiệp sáng tác của Danh nhân Nguyễn Đình Chiểu, mang đến cho người đọc nhiều bài học thấm thía về đạo lý làm người và truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Thời điểm sáng tác vào khoảng năm 1851 (trước khi cụ Đồ Chiểu về Ba Tri), gồm 2.082 câu thơ lục bát (số lượng không đồng nhất ở các bản in). Có thể xem đây là một “bản trường ca” ca ngợi chính nghĩa, đạo đức đáng quý ở đời, góp phần tạo nên danh tiếng của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu trong lòng nhân dân Nam Bộ nói riêng và cả nước nói chung.
Mục đích ban đầu của cụ Đồ Chiểu sáng tác Lục Vân Tiên là để đọc và giảng giải cho học trò nghe. Do đó, truyện thơ Lục Vân Tiên có tính truyền khẩu cao và xuất hiện nhiều dị bản. Sau thời gian phổ biến theo lối truyền miệng, truyện thơ Lục Vân Tiên đã được Duy Minh Thị (tên thật là Trần Quang Quang ở Chợ Lớn) khắc in lần đầu ở Trung Quốc trước năm 1864.
Để phổ biến một sản phẩm văn hóa đến với số đông người dân trong bối cảnh xã hội bấy giờ không gì hữu hiệu hơn bằng phương thức truyền khẩu. Do vậy, Nói thơ Vân Tiên ra đời trên nhu cầu cấp thiết để phổ biến truyện thơ Lục Vân Tiên. Những nội dung về xây dựng đạo lý mẫu mực, lý tưởng phấn đấu, khơi dậy lòng yêu nước, nhân dân thường dùng lối diễn xướng này. Chính nhờ nghệ thuật nói thơ hấp dẫn như thế mà tác phẩm Lục Vân Tiên nhanh chóng được phổ biến rộng rãi. Nội dung “giữ đạo nhà” tác động rất lớn đến nếp sống, nếp nghĩ của nhân dân miền Nam. Cấu trúc diễn xướng Nói thơ Vân Tiên hai cặp câu 6 - 8 (kiểu thơ lục bát). Theo TS Mai Mỹ Duyên - Hội viên Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam, nguyên Phó trưởng Khoa Sau đại học Trường Đại học Văn hóa TP. Hồ Chí Minh: “Đứng trên góc độ âm nhạc cổ truyền Nam Bộ, theo tôi, Nói thơ Vân Tiên là sự kết hợp của các hơi (giọng) trong điệu thức Nam (phổ biến của nhạc tài tử Nam Bộ). Chính sự kết hợp tài tình này làm cho lối Nói thơ Vân Tiên thể hiện đầy đủ tính chất, đặc điểm và cảm xúc của tác phẩm (hùng hồn, mạnh mẽ, nhẹ nhàng, tha thiết, buồn bã, rộn ràng…).
Mỗi loại hình diễn xướng dân gian được sinh ra phải gắn liền với không gian văn hóa còn gọi là môi trường diễn xướng, nơi thể hiện cái hay của thể loại đó. Vào mùa thu hoạch lúa Đông Xuân, trên các thửa ruộng, các lão nông có giọng nói hay đi trình diễn phục vụ chủ ruộng, người gặt lúa để kiếm lúa. Không dừng lại ở đó, Nói thơ Vân Tiên còn xuất hiện trong nhà qua hình thức dỗ trẻ em ngủ thay bằng hình thức hát ru. Trong các cuộc vui, giỗ chạp, đám tiệc, người ta cũng nói thơ trong các cuộc trà dư tửu hậu. Giữa trời nước mênh mông, những chiếc ghe thương hồ cũng là môi trường diễn xướng của Nói thơ Vân Tiên, gắn với điều kiện sông nước Nam Bộ. Trước năm 2009, khi cầu Rạch Miễu chưa khánh thành thì trên những chuyến phà ngược xuôi trên sông Tiền vẫn còn những người Nói thơ Vân Tiên. Bên cạnh đó, những người hành khất cũng Nói thơ Vân Tiên trong cuộc sống mưu sinh hàng ngày. Điều này được cố nhà thơ La Quốc Tiến phản ánh qua bài thơ Lục Vân Tiên thọ nạn giữa rừng. Còn những người chèo đò đưa khách sang sông thì ngoài việc chở khách, họ còn Nói thơ Vân Tiên để phục vụ. Có lẽ hình ảnh ông lão chèo đò đã được Nghệ sĩ nhân dân Viễn Châu khắc họa thành bài vọng cổ nhịp 32 “Ông lão chèo đò”. Trong bài vọng cổ này có ứng dụng hình thức Nói thơ Vân Tiên.
Giữ gìn di sản văn hóa của tiền nhân
Diễn xướng dân gian Nói thơ Vân Tiên được sản sinh trên vùng đất Bến Tre và phát triển cực thịnh vào khoảng trước năm 1975. Nói thơ Vân Tiên đã trở thành sinh hoạt cộng đồng không thể thiếu trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân Ba Tri nói riêng và Bến Tre nói chung. Hiện nay, Nói thơ Vân Tiên không còn phổ biến và đóng vai trò chủ đạo như trước. Tuy nhiên, tháng 6-2019, các chuyên gia nghiên cứu văn hóa có dịp khảo sát, điền dã tại huyện Ba Tri đã ghi nhận được Nói thơ Vân Tiên vẫn còn được các bậc cao niên gìn giữ bằng sự yêu thích và niềm tự hào. Sau đó, Trung tâm Văn hóa - Điện ảnh tỉnh tổ chức lớp truyền dạy Nói thơ Vân Tiên do TS. Mai Mỹ Duyên hướng dẫn cho hơn 200 học viên là các nghệ nhân, tài tử, thi sĩ, cán bộ Trung tâm Văn hóa - Thể thao và Truyền thanh các huyện, thành phố và hội viên Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam TP. Bến Tre.
Năm 2022, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTT&DL) phối hợp với Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, Sở Giáo dục và Đào tạo, Liên đoàn Lao động tỉnh tổ chức 5 lớp truyền dạy theo hình thức trực tuyến với sự tham gia của hơn 10 ngàn học viên. Đối tượng tham dự là cán bộ các ban, ngành, đoàn thể từ cấp tỉnh đến ấp, khu phố; cán bộ làm công tác văn hóa, giáo viên, học sinh; công chức, viên chức, lao động; hướng dẫn viên du lịch. Phó giám đốc Sở VHTT&DL Trần Thị Kiều Tôn cho biết: “Sau lớp truyền dạy, các học viên sẽ là lực lượng nòng cốt để lan tỏa giá trị của loại hình diễn xướng Nói thơ Vân Tiên. Từ đó, đưa loại hình này dần trở thành thói quen trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng”.
Bên cạnh đó, đối tượng được quan tâm nhất trong quá trình bảo tồn Nói thơ Vân Tiên chính là giới trẻ. Thời gian qua, Sở Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với Sở VHTT&DL tổ chức 2 lớp truyền dạy Nói thơ Vân Tiên dành cho giáo viên âm nhạc cấp tiểu học, THCS và học sinh THPT. Qua đây, diễn xướng dân gian Nói thơ Vân Tiên được giới thiệu và phổ biến rộng rãi, đặc biệt là đối tượng học sinh.
Có thể nói, trải qua những thăng trầm của thời gian, tác phẩm truyện thơ Lục Vân Tiên vẫn được nhiều thế hệ nhắc đến, không chỉ vì giá trị nghệ thuật thơ văn mà còn là giá trị về đạo nghĩa làm người. Chính nhờ loại hình diễn xướng dân gian nói thơ đã tác động không nhỏ đến nhận thức, tình cảm, tạo nên tầm ảnh hưởng sâu rộng ngay trên vùng đất Ba Tri - Bến Tre và lan tỏa khắp Nam Bộ.
“Một loại hình hay một thể loại nghệ thuật dù là bác học hay dân gian, nếu như không có người kế thừa thì sẽ mai một và biến mất khỏi đời sống cộng đồng. Vì vậy, việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản, nhất là di sản văn hóa phi vật thể cần được đặc biệt lưu tâm. Chính vì lẽ đó, giải pháp phát huy nghệ thuật Nói thơ Vân Tiên mà tỉnh nhà đang làm rất có ý nghĩa trong hành trình bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh”.
(TS Mai Mỹ Duyên - Hội viên Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam, nguyên Phó trưởng Khoa Sau đại học Trường Đại học Văn hóa TP. Hồ Chí Minh)
|
Bùi Hữu Nghĩa