Chị Dương Cẩm Hồng có nhu cầu tư vấn: Tôi và anh T kết hôn năm 2013. Trước đây, năm 2012, anh T được cha mẹ ruột cho 140m2 đất, trong đó một căn nhà cấp 4 diện tích 80m2. Quá trình chung sống tôi và T đã bỏ tiền ra 700 triệu đồng để sửa chữa nhà, nới rộng diện tích được 140m2. Chúng tôi có một con gái chung 6 tuổi. Tháng 10-2020, chúng tôi quyết định ly hôn. Anh T đòi giành hết căn nhà vì cho rằng là của cha mẹ ruột cho và giành quyền nuôi con. Xin hỏi: Tôi muốn được nuôi con và được chia tài sản là căn nhà có được không?
Thắc mắc của chị được luật sư Lê Vũ Hồng Huệ (Đoàn Luật sư Bến Tre) tư vấn như sau:
- Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình (Luật HN&GĐ) năm 2014 quy định:
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại Khoản 1 Điều 40 của luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung”.
Trường hợp của chị được tư vấn cụ thể như sau:
- Quyền tự thỏa thuận, tự định đoạt: Trước hết, chị và chồng chị có quyền thỏa thuận về vấn đề tài sản và yêu cầu tòa án ghi nhận hoặc có thể hai bên tự thỏa thuận và không yêu cầu tòa án giải quyết (kể cả việc thỏa thuận ai là người sẽ trực tiếp nuôi con).
- Quyền yêu cầu tòa án giải quyết: Trường hợp vợ chồng chị không thỏa thuận được và yêu cầu tòa án giải quyết, cụ thể là yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng. Trong quá trình giải quyết, chị có nghĩa vụ phải chứng minh các phần tài sản mà chị cho rằng là tài sản chung chị và anh T đã cùng tạo lập trong thời gian chị và anh T chung sống. Ví dụ như các khoản thu nhập, tài sản vợ chồng có được là 700 triệu đồng… (Điều 33 Luật HN&GĐ). Ngoài ra, chị cũng có quyền yêu cầu tòa án xem xét công sức đóng góp của chị trên phần đất cha mẹ của anh T đã cho anh T, đồng thời chị phải cung cấp các chứng cứ để tòa án có căn cứ giải quyết.
- Về quyền yêu cầu nuôi dưỡng con chung:
Khoản 2 Điều 81 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 7 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.
Chị và anh T đều có quyền yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung theo quy định. Tuy nhiên, con chung được chung sống với cha hoặc mẹ sẽ do tòa án quyết định sau khi xem xét đánh giá về điều kiện sinh hoạt, học tập, kinh tế của cha hoặc mẹ… kể cả nguyện vọng của con chưa thành niên.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Nếu có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
H.Trâm (thực hiện)