Từ rất sớm,
Người đã bộc lộ một tính cách lớn: Sống có lý tưởng, có hoài bão lớn và trung
kiên. Ngay từ thuở nhỏ, Hồ Chí Minh đã có ý thức gắn vận mệnh cá nhân mình với
vận mệnh chung của đồng bào, đất nước, luôn đau đáu một nỗi niềm: trước cảnh mất
nước, nhà tan, đồng bào lầm than, đói khổ. Đấy chính là những biểu hiện ban đầu
của một nhân cách lớn, một trí thức chân chính: luôn luôn trăn trở, đau đớn trước
nỗi nhục mất nước, đồng bào nô lệ, lầm than, suy nghĩ về những vấn đề liên quan
đến số phận con người và các giá trị làm người. Chính vì được sinh ra trong một
gia đình, quê hương giàu truyền thống yêu nước và văn hiến là yếu tố quan trọng
đã hình thành nên một Hồ Chí Minh mang nhân cách vĩ đại, giàu lòng yêu nước,
thương dân, nhất là những người nghèo khổ, giúp Người thấu hiểu được sức mạnh của
ý chí tự cường, tinh thần tự tôn dân tộc.
Hồ Chí Minh luôn tâm niệm: Độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do
cho đồng bào tôi, đó là tất cả những gì tôi muốn, đó là tất cả những gì tôi hiểu.
Mang khát khao, hoài bão lớn đó, Bác Hồ quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước. Yêu
nước, thương dân, tất cả vì dân, vì nước là suy nghĩ thường trực, nhất quán
trong con người Hồ Chí Minh. Người đi sang Pháp, sang các nước phương Tây nhằm
mục đích học hỏi xem bên ngoài người ta làm thế nào để rồi về nước giúp đồng
bào mình giải phóng khỏi gông cùm nô lệ, áp bức. Và Hồ Chí Minh đấu tranh không
ngừng, không nghỉ, thậm chí phải hy sinh bằng mọi giá giành được độc lập cho Tổ
quốc, tự do cho đồng bào. Chính lòng yêu nước, thương dân của Bác mới là động lực
vĩ đại để làm nên sự nghiệp cách mạng phi thường của Người.
Ba mươi năm, với biết bao phong ba, bão táp đã không ngăn
nổi, không làm chùn ý chí của con người yêu nước, thương dân vô bờ bến. Hai lần
ngồi tù, một lần mang án tử hình vắng mặt, 25 năm hoạt động bí mật, lúc ở châu
Âu, khi về châu Á. Phải làm những việc mà một người có chút trí thức không bao
giờ làm: Bồi tàu, quét tuyết, rửa chén, xúc than, bồi bàn, bán báo… Bác làm mọi
nghề để sống để tìm đường cứu nước, cứu dân. Rồi bao nỗi đau về tinh thần, những
giày vò về tình cảm gia đình, một người bình thường không thể vượt qua nổi, mà
Bác Hồ chúng ta trong thời gian dài phải chịu đựng tất cả. Có lúc bị Quốc tế Cộng
sản nghi kỵ, vô hiệu hóa không cho hoạt động. Nhờ đâu mà Bác vượt qua được - đó
là Bác có một lý tưởng chính trị, nhưng quan trọng hơn đó là đạo đức, nguyện một
đời vì nước, vì dân. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh phát biểu mục
đích cuộc sống mà Người đeo đuổi là: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc,
là làm sao nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng
bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Điểm nổi bật ở Hồ Chí
Minh, chúng ta thấy xuyên suốt trong tư tưởng của người là yêu nước phải gắn liền
với yêu dân, yêu đồng bào. Không thể nói yêu nước là lại không thương dân,
không lấy nguyện vọng, mong muốn, nhu cầu của dân làm nguyện vọng, ham muốn của
mình, mà đã thương dân thì phải đem hết sức mình để lo cho dân. Là lãnh tụ của
dân tộc, là người đứng đầu Đảng và Nhà nước, Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ trách
nhiệm của cá nhân là lo cho dân, cho nước từ những việc lớn đến việc nhỏ: từ việc
tìm đường cứu nước, bảo vệ, đấu tranh thống nhất đất nước, xây dựng, phát triển
mọi mặt xã hội, để thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu nhất của dân, để mọi người đều
có cơm ăn, áo mặc, có chỗ ở, được học hành, có điều kiện khám chữa bệnh, chăm
sóc sức khỏe. Bác từng nói: Người xưa nói: quan là công bộc của dân, ta có thể
nói: Các công việc của Chính phủ phải làm nhằm vào mục đích duy nhất là mưu cầu
hạnh phúc cho mọi người. Cho nên, Chính phủ, nhân dân bao giờ cũng đặt lợi ích
nhân dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm, việc gì có hại cho
dân thì tránh. “Chúng ta yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Chúng
ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều
là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để
đè đầu, cởi cổ dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Nhật, Pháp.
Là người đứng đầu Chính phủ, Người luôn thể hiện tấm
gương là công bộc của dân, và yêu cầu tất cả cán bộ trong bộ máy từ trung ương
đến cơ sở phải thật sự là công bộc của dân, yêu dân, kính dân. Trong suốt cuộc
đời mình, Hồ Chí Minh luôn day dứt với một suy nghĩ: Người chưa làm tròn nghĩa
vụ cách mạng với dân, với nước. Vì thế, Hồ Chí Minh từ chối mọi danh hiệu, phần
thưởng cao quý mà Đảng, Nhà nước, nhân dân, bạn bè quốc tế dành riêng cho Người.
Tự nhận là công bộc của dân, Hồ Chí Minh dồn hết tâm lực,
trí tuệ cùng Đảng và Chính phủ lãnh đạo nhân dân xây dựng, phát triển đất nước,
làm cho Việt Nam trở nên giàu mạnh, hùng cường, sánh vai với các cường quốc năm
châu. Trong Di chúc, Người viết: “VỀ VIỆC RIÊNG - suốt đời tôi hết lòng hết sức
phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế
giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được
phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Một con người khi sống trọn cuộc đời chỉ
có một ham muốn, ham muốn đến tột bật là làm cho nước ta được hoàn toàn độc lập,
dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành. Đến khi sắp lìa khỏi cõi đời chỉ có một điều tiếc là tiếc rằng không được
phục vụ nhân dân lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Và mong muốn cuối cùng của Người
là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự
nghiệp cách mạng thế giới”. Nghiên cứu toàn bộ các tác phẩm của Người và hành động
của Người, chúng ta thấy: Đối với Hồ Chí Minh, phạm trù nhân dân là một phạm
trù cao quý nhất, là một phạm trù chính trị chủ đạo trong học thuyết cách mạng
của Người. Hồ Chí Minh đã nhìn thấy sức mạnh của nhân dân không chỉ đơn thuần
là sức mạnh chính trị mà còn là chiều sâu của tư tưởng nhân văn: “Trong bầu trời
không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết
của nhân dân”. Đó là một minh chứng điển hình về niềm tin vào sức mạnh của nhân
dân. Người khẳng định, dân khí mạnh thì binh lính nào, súng ống nào cũng không
địch nổi. Từ đó, Người quan niệm cái gì có lợi cho nhân dân, cho dân tộc là
chân lý, và Người xem phục vụ nhân dân là phục tùng chân lý; làm công bộc cho
dân là một việc làm cao thượng. Người tâm niệm: Nhà nước được độc lập mà dân
không được hưởng tự do, dân vẫn cứ chết đói, chết rét thì độc lập ấy chẳng có
nghĩa gì. Là công bộc, là đầy tớ của dân thì Đảng, Chính phủ và mỗi cán bộ phải
chăm lo cho đời sống của nhân dân. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, tại
cuộc họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Hồ Chí Minh nêu rõ
mục tiêu của Nhà nước là:
“1. Làm cho dân có ăn.
2. Làm cho dân có mặc.
3. Làm cho dân có chỗ ở.
4. Làm cho dân có học hành”.
Người còn nói “Chúng ta đã hy sinh phấn đấu để giành độc
lập. Chúng ta đã tranh được rồi… Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân
cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ
giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Khi bàn về mục
tiêu hoạt động của Đảng, Hồ Chí Minh khẳng định Đảng không có mục tiêu nào khác
là đem lại lợi ích cho dân. Để thực hiện được mục tiêu đó, Đảng phải thu phục,
chinh phục được nhân dân, muốn vậy, Đảng phải làm tròn trách nhiệm là người đầy
tớ của nhân dân. Người đã viết thật sâu sắc: Người xưa nói: quan là công bộc của
dân, ta cũng có thể nói: Chính phủ là công bộc của dân vậy: Các công việc Chính
phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là đem lại tự do hạnh phúc cho mọi
người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng đặt quyền lợi dân lên trên hết
thảy”. Người nói: “Làm Chủ tịch nước mệt lắm. Trăm việc đều phải lo. Trời mưa,
trời nắng, gió bão…, chưa ai lo, mình đã phải lo. Các cháu choẹt mắt, chưa ai
lo, mình đã phải lo”. Người căn dặn và giáo dục nhận thức cho cán bộ, đảng viên
rằng, cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc đều do mồ hôi, nước mắt của dân mà ra,
nên chúng ta phải đền bù xứng đáng cho dân. Bác yêu cầu cán bộ, đảng viên phải
xông xáo, nhiệt tình sâu sát nhân dân, gương mẫu và dám chịu trách nhiệm trước
dân cả về lời nói và việc làm; phải luôn quyết tâm, bền bỉ, chịu đựng gian khổ,
quan tâm và tìm mọi cách giải quyết kịp thời, hiệu quả những nhu cầu mà dân đặt
ra, kể cả chấp nhận sự hy sinh để bảo vệ dân, phấn đấu vì sự ấm no, hạnh phúc của
nhân dân. Trong thực tế suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, những gì Bác nói, những
gì Bác viết, những gì Bác đã hành động suốt cuộc đời từ lúc đi tìm đường cứu nước
cho đến khi làm lãnh đạo tối cao của Đảng, Chính phủ, của dân tộc, Bác đã thể
hiện một nhân cách lớn, một tấm gương trọn vẹn trong cuộc đời vì nước, vì dân,
làm tròn trách nhiệm là công bộc của nhân dân.
Đời tư trong sáng, cuộc sống giản dị và khiêm tốn hết mực
Tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh được thể hiện trong cuộc
sống sinh hoạt hàng ngày, đó là đời tư trong sáng, cuộc sống riêng giản dị và đức
khiêm tốn hết mực. Người coi khinh sự xa hoa để sống một cuộc đời trong sạch,
suốt đời thực hành cần, kiệm, liêm, chính một cách cần mẫn.
Cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh rất
sôi nổi và oanh liệt, tiếng thơm vang dội khắp năm châu bốn bể. Bác là vị lãnh
đạo tối cao của Đảng, Chính phủ, của dân tộc, được cán bộ, đảng viên và cả dân
tộc tôn vinh, kính mến, nhưng đời sống của Cụ rất bình thường, vô cùng giản dị,
khiêm tốn. Tính giản dị, khiêm tốn của Bác được ca ngợi hết lời. Giản dị là đức
tính tự nhiên của Bác Hồ. Người giản dị thì có nhiều; nhưng lại có ít, rất ít
người đã đạt tới thành công to lớn nhất trong sự nghiệp xã hội và cá nhân, đã đạt
tới đỉnh của sự vinh quang cả trong nước và thế giới mà tính giản dị tự nhiên vẫn
không thay đổi.
Suốt 79 mùa xuân, suốt 60 năm hoạt động đều như vậy.
Trong mấy chục năm đầu giản dị là bản tính, mấy chục năm sau tính giản dị của
Bác có nhằm mục đích giáo dục và làm gương cho cán bộ, đảng viên. Khi Bác mất,
một tờ báo Pháp viết: “Vinh quang đến tột đỉnh, nhưng con người vẫn như trước
kia, nghĩa là vẫn ghét xa hoa hào nhoáng, vẫn giản dị về ăn mặc, sinh hoạt. Khi
Cụ đã cho các em học sinh vuốt râu mình, lúc Cụ đến thăm trường, hoặc như Cụ đi
đôi dép cao su, thì đều không có chút gì mà là mị dân hoặc giả tạo cả”. Còn báo
Anh viết: “Cụ Hồ xem khinh mọi vinh hoa và quyền cao chức trọng. Cụ sống không
phải trong Chủ tịch phủ mà trong một căn nhà nhỏ bây giờ. Cụ mặc bộ quần áo
kaki bạc màu, đi đôi dép cao su. Đây không phải là hình ảnh nhằm phục vụ mục
đích tuyên truyền hay chính trị; Cụ không phải là con người như vậy”.
Bác Hồ và cán bộ. (Ảnh: tư liệu)
Tính giản dị của Bác, những đồng chí gần gũi Bác, những
anh em nhiều năm bảo vệ, phục vụ, kể rất nhiều. Về ăn “Bữa cơm của Bác thanh đạm
lắm. Cá kho khô, canh cua đồng, điểm chút rau thơm, rau ghém, quả ớt đỏ, cơm
nóng dẻo là được rồi. Nếu đổi món thì rau muống luộc cho xanh, cho mềm, trứng
luộc vừa chín lòng đỏ, thêm mấy quả cà pháo muối kiểu xứ Nghệ là được rồi”. Về
mặc, về ở thì chúng ta đã biết rồi, trong cách ăn, cách ở, cách mặc của Bác đều
rất giản dị, chính trong sự giản dị ấy đã toát lên cái vĩ đại của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Chủ tịch Chính phủ Chilê, khi đến thăm nơi ở, làm việc của Bác, phải
thốt lên: “không bao giờ chúng tôi thấy sự giản dị và sự vĩ đại đi liền với
nhau như vậy”. Khó kiếm thấy một người công lao to lớn đã đạt được sự cao nhất
của vinh quang mà vẫn giữ tính khiêm tốn, giản dị y như thuở hàn vi hoạt động
trong vòng vây dày đặc của kẻ thù. Đời tư của Bác thật giản dị, khiêm tốn,
trong sáng như pha lê; gương sáng chói ấy không có một hạt bụi nào có thể bám
được.
Trong tác phẩm Đường Kách Mệnh (1925) - quyển sách vỡ
lòng cho Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, trang đầu nói về tư cách người đảng
viên cách mạng, Nguyễn Ái Quốc có ghi 12 điểm, mà điểm thứ nhất là “cần, kiệm”,
điểm thứ 12 là “ít lòng ham muốn về vật chất”, điểm thứ 9 là “không hiếu danh,
không kiêu ngạo”… Ba điểm đó đều thuộc tính giản dị cả. Người dạy làm sao thì
chính bản thân Người làm gương như vậy. Hồ Chí Minh luôn luôn nói đi đôi với
làm.
Trong hành trình tìm đường cứu nước, dù ở đâu, làm gì, Hồ
Chí Minh chấp nhận mọi công việc, miễn là việc đó có lợi cho tổ chức, cho cách
mạng. Người là tấm gương sáng về người lãnh đạo, người đứng đầu ở vị trí cao nhất
nhưng luôn trung thành, tận tụy vì lợi ích của Tổ quốc và nhân dân, không mưu cầu
lợi ích riêng cho cá nhân và gia đình. Người tâm sự khi phải giữ trọng trách Chủ
tịch nước: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ
phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng
như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng
bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui. Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn
tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự
do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi
thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm
chiều làm bạn với các cụ già hái củi, không dính líu gì với vòng danh lợi”.
Tư tưởng và tấm gương “tuyệt nhiên không ham muốn công
danh phú quý chút nào” một lần nữa lại được Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố
trước Kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I (31-10-1946): “Lần này là lần thứ hai Quốc
hội giao phó cho tôi phụ trách Chính phủ một lần nữa. Việt Nam chưa được độc lập,
chưa được thống nhất thì bất kỳ Quốc hội ủy thác cho tôi hay cho ai cũng phải gắng
mà làm. Tôi xin nhận. Giờ tôi xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân và
trước thế giới rằng: Hồ Chí Minh không phải là kẻ tham quyền cố vị, mong được
thăng quan phát tài”. Trong lời tuyên bố của Hồ Chí Minh, chúng ta chú ý rằng
Người nhấn mạnh việc đảm nhận chức vụ trong một hoàn cảnh đất nước khó khăn, đầy
gian khổ, hy sinh khi “Việt Nam chưa được độc lập, chưa được thống nhất”. Chức
vụ đó là do Quốc hội (nhân dân) ủy thác thì phải gắng sức làm. Còn khi đồng bào
đã cho lui thì lại vui vẻ trở về cuộc sống của một người dân bình thường. Có lẽ,
Hồ Chí Minh là lãnh tụ duy nhất trên thế giới có nhiều đóng góp vĩ đại cho Tổ
quốc mình, nhưng khi đi vào cõi vĩnh hằng trên ngực áo không hề có bất kỳ một tấm
huân chương, huy chương nào.
Để thiết thực kỷ niệm 127 năm Ngày sinh của Người, mỗi
cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và nhân dân cần tích cực học tập, nghiên
cứu và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức và phong cách của Người bằng những
hành động và việc làm cụ thể. Cụ thể là học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh về phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; xây dựng tư tưởng tiến
công, nâng cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu trong thực hiện chức trách, nhiệm
vụ được giao, quyết tâm thực hiện thắng lợi năm hành động 2017 theo nghị quyết
của Tỉnh ủy.
“Cả đời tôi chỉ có một mục
đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi
tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù đày, xông pha sự hiểm nghèo,
là vì mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính quyền, ủy
thác cho tôi gánh việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng - cũng
vì mục đích đó… Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ đeo đuổi một mục
đích, làm cho ích nước, lợi dân”.
(HỒ CHÍ MINH - trích bài nói chuyện với đồng bào trước
khi sang thăm Pháp, ngày 30-5-1946
|