Công tác giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng nửa nhiệm kỳ 2020 - 2025

24/07/2023 - 06:36

BDK - Thời gian qua, công tác kiểm tra, giám sát (KT, GS) tiếp tục được đẩy mạnh, có nhiều chuyển biến tích cực, giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật của Đảng. Thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp phòng ngừa vi phạm đạt kết quả. Đơn thư tố cáo, khiếu nại (KN) được tập trung giải quyết kịp thời, đúng nguyên tắc, quy trình, quy định.

Bồi dưỡng, cập nhật kiến thức công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng cho các ủy viên ủy ban kiểm tra, các huyện ủy, thành ủy và tương đương, chủ nhiệm, phó chủ nhiệm đảng ủy cơ sở. Ảnh: CTV

Bồi dưỡng, cập nhật kiến thức công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng cho các ủy viên ủy ban kiểm tra, các huyện ủy, thành ủy và tương đương, chủ nhiệm, phó chủ nhiệm đảng ủy cơ sở. Ảnh: CTV

Thực hiện tốt kiểm tra, giám sát

Cấp ủy, ủy ban kiểm tra (UBKT) các cấp đã KT 21.825 đảng viên (ĐV), 1.451 tổ chức đảng (TCĐ); GS 2.089 ĐV, 1.746 TCĐ; nội dung chấp hành nghị quyết, chỉ thị, quy chế làm việc, nguyên tắc tập trung dân chủ; chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước. Qua KT, GS kết luận, hầu hết ĐV, TCĐ chấp hành tốt quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Cấp ủy, UBKT các cấp đã thi hành kỷ luật 371 ĐV, giảm 6,3% so với cùng kỳ; nội dung vi phạm chủ yếu thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, vi phạm những điều ĐV không được làm, phẩm chất đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực…

Nửa nhiệm kỳ 2020 - 2025, cấp ủy và UBKT các cấp đã giải quyết 4 đơn KN kỷ luật đảng của ĐV thuộc thẩm quyền. KN về nội dung và hình thức kỷ luật nặng, cho mình không có lỗi vi phạm. Qua giải quyết giữ nguyên hình thức kỷ luật 3 trường hợp, tăng hình thức kỷ luật 1 trường hợp. Cụ thể, Tỉnh ủy đã giải quyết KN kỷ luật đối với 2 ĐV; Ban Thường vụ Thành ủy TP. Bến Tre giải quyết KN kỷ luật 1 ĐV, đều giữ nguyên hình thức kỷ luật cảnh cáo; UBKT Tỉnh ủy đang xem xét giải quyết KN kỷ luật 1 ĐV. ĐV bị thi hành kỷ luật thường có thái độ thiếu hợp tác với đoàn KT để làm rõ, không tự giác nhận khuyết điểm, vi phạm, hình thức kỷ luật tương xứng với nội dung, tính chất, mức độ vi phạm, không cung cấp thông tin, gây khó khăn, cản ngại quá trình thẩm tra, xác minh, thu thập chứng cứ để kết luận vi phạm.

Bên cạnh kết quả trên, công tác KT, GS, kỷ luật đảng còn chưa đáp ứng yêu cầu, chất lượng, hiệu quả chưa đồng đều ở các cấp. Việc tự KT, phát hiện và xử lý vi phạm của nhiều cấp ủy, TCĐ vẫn là khâu yếu; tình trạng KN kỷ luật đảng còn xảy ra. Nguyên nhân chủ yếu là do công tác phối hợp giữa UBKT với cơ quan liên quan chưa thường xuyên, thiếu chặt chẽ; công tác giáo dục, thuyết phục ĐV vi phạm chưa đúng mức, hiệu quả chưa cao.

Từ thực tế công tác KT, GS và kỷ luật của Đảng thời gian qua cho thấy, nơi nào có sự quan tâm của cấp ủy, người đứng đầu thực hiện nhiệm vụ KT, GS thì nơi đó chất lượng, hiệu quả cao hơn, chủ động phòng ngừa vi phạm. Nơi nào thực hiện tốt công tác tự phê bình và phê bình trong quy trình KT thi hành kỷ luật đảng thì ĐV nơi đó ít hoặc không KN kỷ luật lên cấp trên. Coi trọng công tác tuyên truyền, công khai kết quả KT, GS, kỷ luật của Đảng trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm phát huy tác dụng giáo dục, răn đe, cảnh tỉnh, phòng ngừa vi phạm, giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật của Đảng; làm cho TCĐ và ĐV không muốn vi phạm, không thể vi phạm, không dám vi phạm, không KN kỷ luật đảng, tạo sự đồng thuận cao trong cán bộ, ĐV và nhân dân.

Nhiệm vụ, giải pháp thời gian tới

Để tích cực góp phần thực hiện đạt chỉ tiêu kéo giảm 10% ĐV vi phạm kỷ luật; kéo giảm tỷ lệ ĐV KN kỷ luật đảng, thiết nghĩ các cấp ủy, TCĐ, UBKT, người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, UBKT cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện đồng bộ, quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm.

Trước hết là tiếp tục thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các nhóm nhiệm vụ, giải pháp về công tác KT, GS và kỷ luật của Đảng thận trọng, chặt chẽ, công tâm, khách quan, đúng quy trình, quy định đi liền với việc giáo dục, thuyết phục TCĐ, ĐV chấp hành tốt quy định về kỷ luật TCĐ, ĐV vi phạm, không KN kỷ luật đảng. Tập trung thực hiện thường xuyên, nhóm nhiệm vụ, giải pháp phòng ngừa vi phạm và nhóm cần làm ngay trong Chương trình hành động của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về giải pháp kéo giảm ĐV vi phạm kỷ luật, tạo nhận thức mới, nhằm phòng ngừa vi phạm hiệu quả.

Chủ động dự báo, thực hiện đồng bộ nhiệm vụ, giải pháp các mặt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, xây dựng đạo đức, công tác KT, GS, tuyên truyền, vận động và thực hiện nghiêm quy định của Đảng. Nâng cao chất lượng, hiệu quả GS thường xuyên, GS chuyên đề, KT chấp hành, KT khi có dấu hiệu vi phạm để chủ động xử lý kịp thời.

 Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo TCĐ cấp dưới, ĐV thực hiện nghiêm túc công tác KT, GS. Các cơ quan tham mưu giúp việc cấp ủy, đảng đoàn, ban cán sự đảng thường xuyên lãnh đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ KT, GS, bảo đảm thực chất. UBKT các cấp tập trung KT TCĐ và ĐV khi có dấu hiệu vi phạm, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên.

Chú trọng lựa chọn đối tượng, nội dung KT, GS, sát với yêu cầu từng đối tượng cán bộ, ĐV thuộc diện cấp cơ sở, huyện, tỉnh quản lý. Tập trung KT, GS các lĩnh vực trọng điểm, nhạy cảm, dễ phát sinh vi phạm như: quản lý, sử dụng đất đai, đầu tư công, tư pháp, y tế, giáo dục... địa bàn có nhiều đơn thư tố cáo, dư luận xã hội quan tâm. KT, GS, xử lý trách nhiệm tập thể, cá nhân người đứng đầu do buông lỏng lãnh đạo, quản lý, thiếu KT, GS, để nhiều ĐV vi phạm hoặc chậm phát hiện, xử lý không kịp thời.

Thực hiện tốt Quy chế phối hợp giữa UBKT Tỉnh ủy với các cơ quan có liên quan theo quyết định của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Coi trọng việc trao đổi, cung cấp thông tin giữa cấp ủy, UBKT với các TCĐ, Nhà nước, MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội. Thường xuyên kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan UBKT, đủ số lượng, bảo đảm nâng cao chất lượng, tương xứng với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

Hồ Tính Kiệp

Phó chủ nhiệm Thường trực Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN