Đoàn kết, sáng tạo, hành động quyết liệt đưa Bến Tre bứt phá đi lên

14/10/2020 - 06:55

BDK - 1. Trong không khí thi đua lao động sản xuất, “bứt phá về đích” hoàn thành xuất sắc các mục tiêu, nhiệm vụ của những tháng cuối năm 2020, toàn Đảng bộ, dân và quân tỉnh nhà cùng hướng về Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 - 2025 sẽ diễn ra từ ngày 14 đến 16-10-2020. Đây là dịp để chúng ta tổng kết, đánh giá một cách toàn diện kết quả thực hiện Nghị quyết (NQ) Đại hội X Đảng bộ tỉnh, nhiệm kỳ 2015 - 2020, đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu nhiệm kỳ 2020 - 2025 và tầm nhìn đến năm 2030.

Bí thư Tỉnh ủy Phan Văn Mãi trao Huy hiệu 55 năm tuổi Đảng cho Đại tướng Lê Văn Dũng, tháng 9-2020. Ảnh: T.Huyền

Bí thư Tỉnh ủy Phan Văn Mãi trao Huy hiệu 55 năm tuổi Đảng cho Đại tướng Lê Văn Dũng, tháng 9-2020. Ảnh: T.Huyền

Nhìn lại nhiệm kỳ qua và liên tiếp những nhiệm kỳ trước đó, tình hình kinh tế - xã hội duy trì được nhịp độ phát triển. Tốc độ tăng trưởng kinh tế qua các giai đoạn luôn đạt mức khá (giai đoạn 2000 - 2005 là 9,38%, 2005 - 2010 là 9,42%, 2010 - 2015 là 7,30% và 2015 - 2020 là 6,41%). So với các giai đoạn trước, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của giai đoạn 2015 - 2020 có thấp hơn và không đạt mục tiêu NQ Đại hội X Đảng bộ tỉnh (từ 7 - 7,5%), do nhiều nguyên nhân khách quan ngoài dự kiến (hạn mặn xâm nhập sâu và kéo dài, dịch Covid-19 bùng phát), nhưng các chỉ tiêu quan trọng của nền kinh tế đều đạt và vượt.

Cụ thể, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng hiện đại, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và thương mại, dịch vụ; chất lượng tăng trưởng của các khu vực được nâng lên, năng suất lao động bình quân tăng 10,99%, cao hơn các giai đoạn trước; thu ngân sách trên địa bàn đạt 19,9 ngàn tỷ đồng (vượt 25,2% NQ); tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 82,94 ngàn tỷ đồng (vượt 3,4% NQ); thu hút được các nguồn vốn đầu tư FDI (1,088 tỷ USD) và trong nước (ước đạt 68,4 ngàn tỷ đồng); tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt trên 5 tỷ USD, với tỷ trọng hàng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp xuất khẩu chiếm bình quân trên 82,9%...

Bên cạnh đó, việc triển khai thực hiện các NQ chuyên đề, đề án, chương trình, kế hoạch nhằm cụ thể hóa NQ Đại hội X Đảng bộ tỉnh đã đóng góp thiết thực vào kết quả chung của nền kinh tế. Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với phát triển chuỗi giá trị và liên kết phát triển bền vững bước đầu mang lại hiệu quả. Phát triển kinh tế, lĩnh vực thủy sản tiếp tục được đầu tư và khẳng định vai trò quan trọng. Chương trình xây dựng nông thôn mới phát triển, đạt 51/45 xã nông thôn mới, huyện Chợ Lách đạt chuẩn nông thôn mới, TP. Bến Tre hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Hạ tầng các khu, cụm công nghiệp được đầu tư, xây dựng và đưa vào hoạt động ổn định hoặc đang triển khai xây dựng mới. Thương mại, dịch vụ và du lịch tiếp tục tăng trưởng; kinh tế hợp tác, hợp tác xã và các hình thức liên kết sản xuất chuyển dịch theo hướng tích cực, xây dựng chuỗi 8 sản phẩm nông nghiệp chủ lực; chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP), “Đồng khởi khởi nghiệp và phát triển doanh nghiệp” đạt kết quả khả quan. Quy hoạch đô thị được tập trung thực hiện, TP. Bến Tre đạt chuẩn đô thị loại II, các thị trấn Ba Tri, Bình Đại, Mỏ Cày đạt chuẩn đô thị loại IV; các chỉ số về “Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh - PCI”, “Hiệu quả quản trị và Hành chính công - PAPI” và “Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính - SIPAS” được cải thiện, một số chỉ số vươn lên nhóm dẫn đầu cả nước...

Sau chuyến ra khơi. Ảnh: Nguyễn Dừa

Sau chuyến ra khơi. Ảnh: Nguyễn Dừa

 2. Những thành tựu đạt được trong nhiệm kỳ qua là kết quả nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng bộ, dân và quân tỉnh nhà, thể hiện sự chủ động, sáng tạo trong việc triển khai tổ chức thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ NQ Đại hội X Đảng bộ tỉnh. Đồng thời, kết quả đó thể hiện sự tiếp nối, kế thừa và phát huy nền tảng quan trọng đã được tạo nên trong những giai đoạn trước. Nhiều chủ trương, NQ về phát triển kinh tế - xã hội, nhất là những đề án, công trình, dự án trọng điểm có tính vĩ mô, dài hạn được đề ra và triển khai trong những kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh tiếp tục tập trung hoàn thiện, đưa vào khai thác sử dụng, từng bước phát huy hiệu quả tích cực.

Dấu ấn rõ nét nhất là về phát triển khu, cụm công nghiệp đối với một địa phương thuần nông, địa hình sông rạch cách trở, giao thông khó khăn như Bến Tre của những năm đầu 2000, điểm xuất phát gần như là “0”. Đứng trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội tỉnh nhà, bên cạnh hai “mũi nhọn” lúc đó là kinh tế vườn và kinh tế biển, tỉnh đã quyết tâm “đột phá” trên lĩnh vực công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, xây dựng khu, cụm công nghiệp. NQ Đại hội VIII Đảng bộ tỉnh, nhiệm kỳ 2005 - 2010, đề ra mục tiêu “xây dựng hoàn chỉnh hạ tầng khu, cụm công nghiệp; triển khai các dự án trọng điểm, giải quyết cơ bản các yêu cầu về giao thông, thông tin liên lạc, điện, nước ngọt, nước sạch cho sản xuất và đời sống”, với nhiệm vụ và giải pháp là “hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng Khu công nghiệp Giao Long để đẩy mạnh thu hút đầu tư khi cầu Rạch Miễu hoàn thành”.

Đến Đại hội IX Đảng bộ tỉnh, nhiệm kỳ 2010 - 2015, mục tiêu và giải pháp trong phát triển hạ tầng giao thông, khu, cụm công nghiệp tiếp tục được quan tâm, “đầu tư hoàn chỉnh hạ tầng, đưa vào sử dụng có hiệu quả toàn bộ diện tích đất Khu công nghiệp Giao Long và An Hiệp”; “đầu tư xây dựng hoàn thành các công trình trọng điểm về kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật, nhất là những công trình phòng chống xâm nhập mặn, giải quyết nguồn nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt...”. Hay như vấn đề “nóng” trong đầu tư phát triển công nghiệp của tỉnh hiện nay là tạo quỹ đất sạch đã được nêu lên trong NQ từ 10 năm trước “kêu gọi đầu tư hạ tầng, tạo quỹ đất sạch thu hút những nhà đầu tư có quy mô lớn, có hàm lượng công nghệ cao”.

Trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp đã có bước chuyển quan trọng trên tất cả các mặt thông qua Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp được triển khai thực hiện trong giai đoạn 2013 - 2015 và hướng đến năm 2020. Kết quả nổi bật là cây dừa ngày càng đóng vai trò là cây chủ lực của tỉnh, diện tích trên 72,7 ngàn héc-ta, sản lượng đạt từ 600 - 700 triệu trái/năm, xuất khẩu năm 2019 trên 250 triệu USD. Từ một vài sản phẩm ban đầu như cơm dừa nạo sấy, sữa dừa, than hoạt tính, thủ công mỹ nghệ... đến nay tăng lên hàng trăm sản phẩm đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng, hình thành các doanh nghiệp dẫn đầu, sản xuất quy mô lớn, trang thiết bị hiện đại, đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tế, chinh phục được các thị trường khó tính như Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Đông... Đối với cây ăn trái đặc sản của tỉnh, cùng với tăng diện tích và sản lượng, xây dựng và hoàn thiện chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp chủ lực tỉnh (dừa, bưởi da xanh, chôm chôm, nhãn, hoa kiểng, heo, bò và tôm biển), trong đó, dừa xiêm xanh và bưởi da xanh được cấp chứng nhận chỉ dẫn địa lý, uy tín thương hiệu nâng cao, mở rộng thị trường xuất khẩu, tháng 9-2020 lần đầu tiên tỉnh trực tiếp xuất khẩu lô hàng nông sản sang châu Âu theo Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - EU (EVFTA)...

Một trong những nhiệm vụ trọng yếu được tỉnh nhà tập trung thực hiện trong các nhiệm kỳ qua là huy động mọi nguồn lực, tập trung đầu tư xây dựng và hoàn thiện hệ thống giao thông tỉnh nhà. Lần lượt các công trình trọng điểm được xây dựng, hoàn thành và đưa vào sử dụng như: cầu Rạch Miễu (2009), cầu Hàm Luông (2010), cầu Cổ Chiên (2015), các tuyến quốc lộ 60, 57 và tuyến đường tỉnh lộ, huyện lộ về trung tâm các huyện, xã được nâng cấp và mở rộng... Kết cấu hạ tầng giao thông hoàn chỉnh, đồng bộ đáp ứng tốt cho nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hóa thông suốt. Đồng thời, xóa bỏ cách biệt về mặt địa lý, nối liền với các tỉnh khu vực và TP. Hồ Chí Minh, hình thành nên tuyến giao thông huyết mạch phía đông đồng bằng sông Cửu Long, tỉnh nhà từ chỗ “bốn bề sông nước” trở thành nơi giao thương thuận lợi cả về đường bộ, đường thủy, hấp dẫn nhà đầu tư và thu hút du khách đến tham quan, tìm kiếm cơ hội phát triển sản xuất, kinh doanh...

Thi công công trình điện gió. Ảnh: Cẩm Trúc

Thi công công trình điện gió. Ảnh: Cẩm Trúc

3. Song hành với nhiệm vụ trọng tâm phát triển kinh tế, nhiệm vụ then chốt về xây dựng Đảng trên cả 3 mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức đã đạt được những kết quả quan trọng. Xuyên suốt qua các nhiệm kỳ, công tác xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trở thành một trong những nội dung quan trọng của các cấp ủy. Chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên tiếp tục được nâng lên, thường xuyên chăm lo bồi dưỡng, tạo nguồn, phát triển đảng viên mới. Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng Đảng, góp phần ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nói không đi đôi với làm... Qua đó giúp cho đội ngũ cán bộ, đảng viên kiên định mục tiêu lý tưởng, giữ vững lập trường tư tưởng, nâng cao bản lĩnh chính trị, trong sáng về phẩm chất đạo đức, lối sống, đề cao vai trò tiên phong gương mẫu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đồng thời tạo nên sự đoàn kết, nhất trí trong toàn Đảng bộ, quyết tâm chính trị cao, thể hiện tính năng động, sáng tạo, đổi mới tư duy và nâng cao năng lực hành động nhằm đạt kết quả cao trong thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.

Ngoài ra, để tạo môi trường ổn định đảm bảo yêu cầu phát triển, cùng với việc kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức, bộ máy hệ thống chính trị, công tác quốc phòng - an ninh được tăng cường. Chủ trương kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh được tập trung triển khai thực hiện tốt. Củng cố thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, thực hiện tốt công tác bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia khu vực biên giới biển. An ninh chính trị ổn định, kịp thời xử lý có hiệu quả các tình huống phát sinh; kiềm chế và kéo giảm các loại tội phạm. Công tác tiếp và đối thoại với công dân của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền được thực hiện tốt; quan tâm giải quyết kịp thời các khiếu nại, tố cáo của công dân...

Điểm lại một vài thành tựu nổi bật có ý nghĩa to lớn trong giai đoạn 2015 - 2020 và các giai đoạn trước để minh chứng cho bước tiến vượt bậc về mọi mặt của tỉnh nhà, theo chiều rộng lẫn chiều sâu. Kết quả đạt được không chỉ dừng lại ở những con số, tỷ lệ phần trăm đạt và vượt các chỉ tiêu của nghị quyết mà còn cho thấy tiềm lực, sức mạnh của nền kinh tế tỉnh nhà ngày càng mở rộng cả về quy mô, số lượng và chất lượng các yếu tố hợp thành. Từ đó, tạo nên thế và lực mới, là “đường băng” vững chắc để làm bệ phóng cho các ngành, lĩnh vực tiếp tục “cất cánh” trong giai đoạn 2020 - 2025. Đồng thời, qua đó cũng cho thấy một sự thay đổi rất lớn về mặt nhận thức của Đảng bộ và nhân dân tỉnh nhà, thể hiện sự năng động, sáng tạo “dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm”. Xây dựng và đề ra những chủ trương, nghị quyết sát với tình hình thực tiễn và có tính khả thi cao, nhất là các nhiệm vụ trọng tâm, có tính “đột phá”, không chỉ cho một thời điểm, một giai đoạn phát triển nhất định, mà còn có tính định hướng, tầm nhìn xa hơn cho những giai đoạn tiếp theo. Từng bước xóa bỏ tư tưởng “an phận”, thiếu ý chí vươn lên, ngại thay đổi; xóa bỏ tâm lý, suy nghĩ theo lối mòn của kiểu sản xuất lạc hậu, manh mún... Đó cũng là kết quả của việc phát huy tinh thần Đồng khởi, vận dụng linh hoạt trong tình hình hiện nay. Không cam chịu đói nghèo lạc hậu, quyết chí vươn lên làm chủ cuộc sống, sẵn sàng đương đầu với khó khăn, thách thức, “tinh thần và ý chí tự lực, tự cường vượt khó vươn lên, dám xả thân sẵn sàng hy sinh vì đại cuộc” trong đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc thêm lần nữa được phát huy trong giai đoạn cách mạng mới.

 4. Dự báo tình hình thời gian tới, bên cạnh điều kiện thuận lợi và thời cơ từ thành quả đạt được trên các lĩnh vực, cùng với những bài học kinh nghiệm quý báu được rút ra trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ NQ của các kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh, chúng ta sẽ gặp không ít khó khăn, thách thức. Đó là kinh tế - xã hội tuy có bước phát triển nhưng chưa thật sự thoát khỏi tình trạng tụt hậu, hiện ở vị trí 8/13 tỉnh, thành của khu vực; quy mô nền kinh tế vẫn còn khiêm tốn, lĩnh vực nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế và chịu nhiều rủi ro trước tác động diễn biến khó lường của thời tiết, biến đổi khí hậu, tình hình hạn mặn xâm nhập sâu và kéo dài ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của người dân; tình hình dịch Covid-19 bùng phát và chưa thật sự được kiểm soát; thách thức an ninh phi truyền thống từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tác động, đe dọa về an toàn thông tin, an ninh mạng, kinh tế, chính trị, văn hóa... Tình hình đó đòi hỏi Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh nhà phải chủ động hơn nữa, đoàn kết sáng tạo, thống nhất cao về ý chí và hành động, nắm bắt và tận dụng tốt cơ hội, huy động tối đa các nguồn lực tập trung đầu tư phát triển, phấn đấu đưa tỉnh nhà phát triển nhanh, bền vững, xây dựng Bến Tre thành tỉnh phát triển khá của khu vực năm 2025 và cả nước vào năm 2030.

Vươn lên, phát triển cùng cả nước là khát vọng của nhiều thế hệ lãnh đạo và nhân dân tỉnh nhà. Khát vọng đó từng bước được hiện thực hóa bằng sự nỗ lực không mệt mỏi, ý chí kiên trì vượt qua bao thác ghềnh trở ngại, không lùi bước trước khó khăn thách thức, bền bỉ vươn lên của Đảng bộ, quân và dân tỉnh nhà để có được thành quả to lớn như hôm nay. Đây cũng chính là sự “đơm hoa kết trái” của biết bao nhiêu mồ hôi, công sức, trí tuệ, tâm huyết của bao thế hệ đi trước “gieo hạt, chăm sóc” cần được kế thừa, giữ gìn, vun đắp cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Hơn lúc nào hết, chúng ta đang hội đủ các điều kiện hết sức thuận lợi và đứng trước thời cơ để đưa khát vọng sớm trở thành hiện thực. Cán bộ, đảng viên và nhân dân tỉnh nhà hãy vững niềm tin, đoàn kết sáng tạo, cùng hành động quyết liệt để đưa Bến Tre bứt phá đi lên.

Phan Văn Mãi - Bí thư Tỉnh ủy

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN