Phó chủ nhiệm Thường trực Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Hồ Tính Kiệp. Ảnh: H. Hiệp
* Xin đồng chí cho biết việc triển khai quán triệt, cụ thể hóa thực hiện công tác KT, GS và THKLCĐ thời gian qua?
- Đồng chí Hồ Tính Kiệp: Thời gian qua đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể hóa việc xây dựng và hoàn thiện các quy định về công tác KT, GS và THKLCĐ phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, nhất là quy chế phối hợp giữa UBKT Tỉnh ủy với các cơ quan, ngành tỉnh có liên quan. Quy trình KT, GS, THKLCĐ và nguyên tắc, nhiệm vụ, quyền hạn của các đoàn KT, GS cũng như giải pháp tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ KT, GS bảo đảm chặt chẽ, đúng quy định.
Quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc kiện toàn tổ chức, bộ máy và phân bổ biên chế cơ quan UBKT cấp tỉnh, cấp huyện đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng. Đổi mới công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bổ nhiệm CB để nâng cao chất lượng đội ngũ CB làm công tác KT ngang tầm nhiệm vụ mới. Chú trọng xây dựng, rèn luyện đội ngũ CB KT có tư tưởng tiến công, bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng; năng động, đổi mới; có uy tín; có năng lực và kinh nghiệm thực tiễn.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Kế hoạch số 136-KH/TU về luân chuyển CB lãnh đạo, quản lý UBKT để đào tạo, bồi dưỡng rèn luyện, thử thách trong thực tế, từng bước đáp ứng nhu cầu bố trí CB cho UBKT các cấp thực hiện tốt nhiệm vụ KT, GS theo Kết luận số 23-KL/TW của Ban Bí thư. Đồng thời, đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, ứng dụng công nghệ thông tin gắn với cải cách thủ tục chính trong Đảng, đảm bảo điều kiện cho CB KT thực hiện tốt nhiệm vụ.
Quan tâm đổi mới, tăng cường hoạt động KT, GS nâng cao hiệu lực, hiệu quả, trong đó việc xác định nội dung, đối tượng KT, GS có trọng tâm, trọng điểm theo phương châm “lãnh đạo nội dung gì, KT, GS nội dung đó”. Chú trọng KT, GS người đứng đầu TCĐ, nhà nước, MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.
* Bên cạnh kết quả, có những hạn chế, khó khăn nào?
- Nhìn chung, công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chiến lược KT, GS của Đảng ở một số nơi còn chưa thường xuyên, thiếu quyết liệt. Có nhiệm vụ, giải pháp chưa được thực hiện đầy đủ, thiếu toàn diện, đồng bộ, hiệu quả chưa cao. Một số ban cán sự đảng, đảng đoàn, ban tham mưu của cấp ủy, TCĐ chưa thực sự quan tâm lãnh đạo và tổ chức thực hiện công tác KT, GS hiệu quả cao.
Việc triển khai, quán triệt một số văn bản Trung ương, tỉnh của một số cấp ủy, UBKT chưa sâu, chưa kịp thời. Có nơi xem công tác KT, GS là nhiệm vụ của UBKT, do đó lãnh đạo, chỉ đạo về công tác KT, GS chưa thật sự quyết liệt, hiệu quả chưa cao. Công tác tuyên truyền chưa thường xuyên, nhất là ở cơ sở. Việc công khai nội dung các kỳ họp của UBKT ở cấp huyện, cơ sở và kết quả xem xét, xử lý các vụ việc trên các phương tiện thông tin đại chúng còn ít, thiếu kịp thời, chưa lan tỏa mạnh để tạo sự đồng thuận cao.
Việc phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ KT, GS và THKLCĐ chưa thường xuyên, chất lượng, hiệu quả có mặt còn hạn chế. Nội dung, trách nhiệm, phương pháp phối hợp còn thiếu chặt chẽ, đồng bộ, chưa kịp thời. Việc phát hiện, nhân rộng những cách làm mới, sáng tạo, hiệu quả chưa nhiều.
* Để thực hiện Kết luận số 34-KL/TW ngày 18-4-2022 về Chiến lược KT, GS của Đảng đến năm 2030, cấp ủy, UBKT các cấp cần quan tâm thực hiện những nội dung nào?
- UBKT các cấp tham mưu cấp ủy ban hành đầy đủ, kịp thời các chỉ thị, chương trình, quy định, quy chế về công tác KT, GS, THKLCĐ. Đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền về công tác KT, GS. Công khai kết quả xử lý kỷ luật CB, ĐV trên các phương tiện thông tin đại chúng theo quy định; thực hiện nghiêm quy định về chế độ bảo mật thông tin trong quá trình KT TCĐ, ĐV khi có dấu hiệu sai phạm khi chưa có kết luận. Kịp thời phát hiện, biểu dương, nhân rộng những nhân tố mới, cách làm hay, điển hình tốt, phát huy sự năng động, sáng tạo của TCĐ, ĐV trong công tác KT, GS.
Cấp ủy, nhất là người đứng đầu định kỳ 6 tháng làm việc với UBKT để nắm tình hình, kịp thời chỉ đạo công tác KT, GS và định hướng tham mưu nhiệm vụ KT, GS của cấp ủy, các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy, đảng đoàn, ban cán sự đảng.
Thực hiện có hiệu quả Chương trình số 23-CTr/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Kết luận số 34-KL/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược công tác KT, GS của Đảng đến năm 2030; Chỉ thị số 04-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường công tác phối hợp, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác KT, GS, THKLCĐ và Chương trình số 13-CTr/TU của Tỉnh ủy thực hiện đồng bộ các giải pháp kéo giảm ĐV vi phạm kỷ luật.
Tiếp tục đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác KT, GS của Đảng đi liền với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa XIII về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới. Thực hiện tốt phương châm “Lãnh đạo nội dung gì thì KT, GS nội dung đó”; “KT, GS nội dung gì thì tuyên truyền nội dung đó”, “GS phải mở rộng”, “KT phải có trọng tâm, trọng điểm”.
Cấp ủy, người đứng đầu, CB chủ chốt, cấp ủy viên và CB thuộc diện cấp ủy quản lý phải thường xuyên tự kiểm tra, tự soi, tự sửa, kịp thời phát hiện những hạn chế, khuyết điểm để chủ động khắc phục, chấn chỉnh không để dẫn đến vi phạm. Tăng cường công tác dự báo tình hình, chủ động nghiên cứu, tham mưu, ban hành các văn bản của cấp ủy để lãnh đạo, chỉ đạo, nhất là quy định về cơ chế phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm của TCĐ và ĐV; bảo đảm giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương trong Đảng.
* Xin cảm ơn Phó chủ nhiệm Thường trực UBKT Tỉnh ủy!
Từ năm 2010 đến nay, các cấp ủy đã KT 10.109 TCĐ và 124.158 ĐV, qua KT kết luận 107 TCĐ thực hiện chưa tốt; 1 TCĐ và 52 ĐV có vi phạm, đã thi hành kỷ luật 23 ĐV. GS 4.513 TCĐ và 6.657 ĐV, qua GS phát hiện 1 TCĐ và 3 ĐV có dấu hiệu vi phạm, chuyển KT để làm rõ, kết luận xử lý theo quy định. UBKT các cấp KT 133 TCĐ và 1.860 ĐV khi có dấu hiệu vi phạm. Qua KT kết luận 105 TCĐ và 1.775 ĐV có vi phạm, phải xử lý kỷ luật 10 TCĐ và 1.099 ĐV, đã thi hành kỷ luật xong 10 TCĐ và 1.086 ĐV. Các cấp ủy và UBKT kỷ luật 17 TCĐ (9 khiển trách, 8 cảnh cáo) và 2.217 ĐV (1.233 khiển trách, 712 cảnh cáo, 76 cách chức, 196 khai trừ). Giải quyết khiếu nại kỷ luật 67 ĐV, kết luận giữ nguyên hình thức kỷ luật 50, thay đổi hình thức kỷ luật 17 trường hợp, trong đó tăng hình thức kỷ luật 1, giảm hình thức kỷ luật 8 và xóa hình thức kỷ luật 8. |
Hữu Hiệp (thực hiện)